Tăng cường vai trò của Viện KSND trong công tác bồi thường nhà nước trên địa bàn quận Nam Từ Liêm, Hà Nội

27/04/2023 09:20 | 594 | 0

        Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước ra đời là một bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để đáp ứng yêu cầu tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, trách nhiệm của Viện KSND trong giải quyết bồi thường nhà nước càng phải được nâng cao. Các trường hợp bồi thường nhà nước thuộc trách nhiệm của Viện KSND được quy định cụ thể tại Điều 35 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 bao gồm 07 trường hợp và phạm vi trách nhiệm bồi thường của Viện kiểm sát trong hoạt động tố tụng hình sự trong Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 đã được xác định rộng hơn, cụ thể hơn.

        Điều 35 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 quy định Viện kiểm sát là cơ quan giải quyết bồi thường trong các trường hợp sau đây:

        1. Đã phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn tạm giữ của Cơ quan điều tra hoặc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhưng người bị bắt, bị tạm giữ không có hành vi vi phạm pháp luật;

      2. Đã phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh tạm giam, quyết định gia hạn tạm giam mà sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 34 của Luật này; đã quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng căn cứ kết quả điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;

        3. Đã ra quyết định truy tố bị can nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;

        4. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm;

        5. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung nhưng sau đó tuyên bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật;

        6. Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm;

        7. Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm và sau đó Tòa án xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm vẫn giữ nguyên bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm xác định bị cáo không có tội vì không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm.”

        So với quy định tại Điều 26 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009, tại Điều 18 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 quy định về phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự có 02 trường hợp được bổ sung mới là: “Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp mà không có căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật” (khoản 1 Điều 18) và trường hợp “Pháp nhân thương mại bị khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định không có sự việc phạm tội hoặc hành vi của pháp nhân không cấu thành tội phạm hoặc hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được pháp nhân đã thực hiện tội phạm và pháp nhân đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật” (khoản 9 Điều 18).

        Kể từ khi Luật Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 có hiệu lực đến nay, Viện KSND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội chưa thụ lý, giải quyết trường hợp nào thuộc trách nhiệm bồi thường nhà nước của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, Viện KSND quận Nam Từ Liêm thường xuyên tổ chức, phổ biến, quán triệt các quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2017 cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành của VKSND tối cao, gồm: (1) Hướng dẫn số 304 ngày 29/6/2018 về Quy trình giải quyết yêu cầu bồi thường của Nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của VKSND; (2) Hướng dẫn số 34 ngày 25/10/2019 về công tác quản lý việc giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát; (3) Hướng dẫn số 35 ngày 07/12/2020 về việc áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại của Nhà nước đối với một số vấn đề cụ thể; (4) Hướng dẫn số 30 ngày 09/8/2021 về xác định trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ gây thiệt hại...nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực của cán bộ công chức trong việc giải quyết công tác bồi thường nhà nước và phòng chống oan, sai trong tố tụng hình sự.

Viện KSND quận Nam Từ Liêm tích cực tham gia tập huấn bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng về công tác bồi thường Nhà nước

        Chủ thể nào đại diện cho Nhà nước đứng ra thụ lý, giải quyết yêu cầu bồi thường; thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; kinh phí bồi thường; trách nhiệm hoàn trả... đều đã được quy định cụ thể trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 và các văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên thực tế đã xảy ra, không ít trường hợp cơ quan Nhà nước không muốn mình là cơ quan giải quyết bồi thường, vì khi đó họ có nhiều trách nhiệm quan trọng như “trực tiếp xin lỗi và cải chính công khai”, “phục hồi danh dự” đối với người bị oan trong tố tụng hình sự. Bên cạnh đó, việc xác định cơ quan có trách nhiệm thụ lý, giải quyết yêu cầu bồi thường do bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự thường gặp rất nhiều khó khăn, vì có nhiều cơ quan cùng tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự, quá trình giải quyết vụ án kéo dài do trải qua rất nhiều giai đoạn tố tụng, có những vụ án bị hủy để điều tra, xét xử lại nhiều lần….,

        Để khắc phục vướng mắc về điều kiện thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, Viện KSND quận Nam Từ Liêm kiến nghị cần quy định cụ thể thời gian cơ quan nhà nước phải ban hành văn bản xác định hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ công chức là trái pháp luật khi nhận được yêu cầu của người dân và quy định chế tài cụ thể đối với cơ quan nhà nước trong việc chậm trễ ban hành văn bản này. Đồng thời, cần đơn giản hóa các thủ tục và điều kiện để tiếp nhận đơn yêu cầu bồi thường nhà nước, vừa đảm bảo tính công bằng giữa các cơ quan nhà nước với nhân dân, vừa nâng cao ý thức trách nhiệm của người thực thi công vụ, đồng thời tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Cần phải sửa đổi các quy định về việc xác định thiệt hại theo hướng đơn giản, thuận tiện hơn cho người dân; các thiệt hại cần phải được xem xét tổng thể hơn, bao gồm cả thiệt hại trực tiếp và gián tiếp, thiệt hại vể vật chất và thiệt hại về tinh thần.

                                                                                 Bùi Lê Mai Anh - Viện KSND quận Nam Từ Liêm

HÌNH ẢNH

ĐĂNG NHẬP

Website liên kết

Thống kê truy cập

Đang truy cập Đang truy cập : 96

Tổng lượt truy cập Tổng lượt truy cập : 1526612