Công tác kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra (CQĐT) là hoạt động kiểm sát có vai trò rất quan trọng, nhằm bảo đảm việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT đúng pháp luật. Thực tiễn Thực hành quyền công tố ở giai đoạn kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cho thấy, kiểm sát tốt việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm có hiệu quả rất lớn đến việc nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử án hình sự, hạn chế việc oan, sai, bỏ lọt tội phạm chính là ở giai đoạn này. Tuy nhiên trong thực tế, việc triển khai c«ng t¸c này còn gặp không ít những khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ.
1. Một số khó khăn, vướng mắc trong công tác kiểm sát
1.1. Điều 112, 114 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định quyền của Viện kiểm sát đề ra “yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định…”, quy định “Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát” nhưng những yêu cầu và quyết định này là những yêu cầu điều tra và quyết định trong quá trình điều tra vụ án (sau khi có quyết định khởi tố vụ án). Trong quá trình kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố hiện chưa có văn bản pháp luật nào quy định quyền hạn này của Viện kiểm sát, đây là khó khăn vướng mắc, cần có biện pháp tháo gỡ.
1.2. Thời hạn điều tra vụ án hình sự được quy định tại điều 109 BLTTHS, trong trường hợp cần thiết có thể được gia hạn điều tra 2 lần và trong trường hợp đặc biệt có thể được gia hạn điều tra lần thứ ba. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố quy định tại điều 103 BLTTHS là tối đa là 2 tháng. Tuy nhiên đối với các Tố giác, tin báo về tội phạm phức tạp cần có thời gian xác minh, chờ kết quả giám định. Vụ việc xảy ra ở nhiều nơi, đối tượng bị tố giác bỏ trốn thì 02 tháng không thể giải quyết dứt điểm được. Đây là một vướng mắc trong thực tế. Đối với những tin khi xác minh đã hết thời hạn 2 tháng chưa thể kết luận được có dấu hiệu của tội phạm hay chỉ là các quan hệ pháp luật khác thì không thể ban hành một trong hai hình thức giải quyết là ra quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án, những vụ việc này thường phải tiếp tục thu thập tài liệu xác minh do đó việc vi phạm về thời hạn giải quyết là điều phải chấp nhận trên thực tế.
1.3. Đối với một số trường hợp hết thời hạn giải quyết nhưng không có điều kiện kết luận giải quyết (trong điều tra vụ án hình sự có hình thức xử lý là tạm đình chỉ) như: người tố giác sau khi gửi đơn tố cáo bỏ đi khỏi nơi cư trú…, có những nguyên nhân khách quan dẫn đến CQĐT không thể xác minh được tài liệu để kết luận. Tại điều 13 Thông tư liên tịch số 06 ngày 02/8/2013 quy định:
“Trường hợp đã hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 mà cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố chưa đủ căn cứ để quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự thì thông báo ngay bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp biết để thống nhất quan điểm giải quyết.”.
Đây là một quy định mở và dễ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. “Thống nhất quan điểm giải quyết” bằng quyết định tố tụng nào khi không thể ban hành quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự? Khi hết thời hạn 2 tháng, hai cơ quan thống nhất ra thông báo tạm dừng lại không xác minh tiếp thì có vi phạm không? Thực tế có quan điểm cho rằng “xếp hồ sơ” vậy khái niệm “xếp hồ sơ” này là như thế nào? Bằng hành vi, quyết định pháp lý nào? Có khác với việc ban hành văn bản Thông báo tạm dừng xác minh không? Khi ra thông báo tạm dừng này có thể “người tố giác tội phạm” sẽ khiếu nại về việc giải quyết của CQĐT, tiếp tục xác minh giải quyết thì vi phạm về thời hạn do chưa có quy định về việc gia hạn thời hạn giải quyết…
1.4. Công an cấp huyện còn có cơ quan cấp dưới đó là công an cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là công an cấp xã), một số hoạt động của công an cấp này là hoạt động thuộc lĩnh vực tư pháp. Công an cấp xã có thẩm quyền tiếp nhận, phân loại, xử lý ban đầu các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn xã nếu là tố giác, tin báo tội phạm thì chuyển đến CQĐT…. Như vậy, hoạt động tiếp nhận, phân loại ban đầu các tin báo, vụ việc nêu trên của công an cấp xã là hoạt động tư pháp nhằm phân loại xử lý, tin báo và tố giác tội phạm thuộc lĩnh vực hình sự. Nhưng hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào quy định Viện kiểm sát trực tiếp kiểm sát hoạt động nêu trên của công an cấp xã nhằm tránh việc phân loại xử lý ban đầu của công an cấp xã không đúng, bảo đảm cho việc tuân theo pháp luật và tránh bỏ lọt tội phạm.
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
2.1. Giải pháp về quy định của pháp luật.
Theo tôi kiến nghị cần sửa đổi Điều 103 BLTTHS và Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 theo hướng: Đưa các quy định của Luật Tổ chức Viện KSND vào BLTTHS; quy định về việc gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố; về việc tạm dừng xác minh trong những trường không thể kết luận được có hay không hành vi phạm tội; về quyền ban hành yêu cầu xác minh của Viện kiểm sát và trách nhiệm của CQĐT phải thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát; về những hoạt động xác minh mà Viện kiểm sát có quyền được thực hiện trong quá trình kiểm sát việc giải quyết của CQĐT khi thấy cần thiết như ghi lời khai người tố cáo, người bị tố cáo…
2.2. Một số giải pháp:
Với những quy định của pháp luật hiện nay, qua thực tế kết quả công tác kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn vướng mắc nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố như sau:
Một là: Theo tôi giải pháp đầu tiên và quan trọng nhất là Viện kiểm sát từng quận huyện cần căn cứ vào Quy chế phối hợp liên ngành của cấp trên, trên cơ sở đặc điểm tình hình của địa phương mình cần chủ động xây dựng và ký kết Quy chế phối hợp liên ngành với các cơ quan có thẩm quyền trong công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, lấy đó làm cơ sở, làm căn cứ quan trọng để tổ chức thực hiện hoạt động giải quyết và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Đối với cấp huyện thì quy chế phối hợp nên cụ thể, chi tiết những công việc cần thực hiện. Để làm được điều đó Viện kiểm sát cấp huyện cần nắm rõ và đầy đủ những khó khăn vướng mắc gặp phải trong công tác kiểm sát để đưa vào quy chế phối hợp trên cơ sở làm căn cứ cho Kiểm sát viên, Điều tra viên thực hiện nhiệm vụ. Theo tôi những nội dung nên đưa vào quy chế phối hợp là:
- Việc Kiểm sát viên có quyền ban hành “yêu cầu xác minh thu thập tài liệu” hoặc “phiếu kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố”, Điều tra viên phải có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của Kiểm sát viên.
- Nên đưa việc phối hợp giữa CQĐT và Viện kiểm sát cấp huyện trong việc định kỳ tiến hành kiểm tra việc tiếp nhận, phân loại tố giác, tin báo tội phạm của Công an cấp xã. Trong trường hợp không đưa nội dung này vào trong quy chế thì thông qua hoạt động kiểm sát trực tiếp hàng năm đối với CQĐT thì tiến hành làm việc với Công an cấp xã với lý do là Viện kiểm sát xác minh tại đơn vị có liên quan đến nhiệm vụ tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT.
Hai là: Đối với những trường hợp Kiểm sát viên phát hiện Điều tra viên chưa kịp thời thu thập tài liệu, chưa kịp thời tiến hành các hoạt động xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu việc thu thập tài liệu không khách quan…, thấy cần thiết trực tiếp tiến hành việc ghi lời khai của những người liên quan thì Kiểm sát viên cần báo cáo đề xuất Lãnh đạo Viện và chủ động phối hợp với Điều tra viên cùng tiến hành hỏi, ghi lời khai để có căn cứ đánh giá kết luận giải quyết vụ việc được khách quan và chính xác. Trong trường hợp này về hình thức biên bản, điều tra viên là người chủ trì ghi lời khai, Kiểm sát viên tham gia với vai trò giám sát việc ghi lời khai nhưng Kiểm sát viên phải là người định hướng được việc ghi lời khai (trực tiếp hỏi nhưng chuyển hóa thành câu hỏi của điều tra viên trong biên bản ghi lời khai).
Ba là: Thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp cụ thể là việc phát hiện vi phạm và kiến nghị vi phạm trong việc tiếp nhận và giải quyết tố giác tin báo về tội phạm. Các biện pháp thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong hoạt động này là:
- Thường xuyên tích lũy vi phạm, định kỳ 3 tháng, 6 tháng… ban hành văn bản kiến nghị tổng hợp vi phạm. Việc tích lũy vi phạm được thực hiện từ các hoạt động:
+ Hoạt động thụ lý của CQĐT: thông qua công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường, thông qua các thông tin từ các phương tiện thông tin truyền thông, từ các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đơn của công dân…
+ Hoạt động ban hành quyết định phân công Điều tra viên, chuyển quyết định phân công điều tra viên của CQĐT đến Viện kiểm sát theo quy định tại điểm 1 Điều 9 Thông tư liên tịch số 06 (về thời hạn ra quyết định phân công, thời hạn chuyển quyết định phân công đến Viện kiểm sát).
+ Hoạt động giải quyết của CQĐT mà cụ thể là của Điều tra viên, việc tuân thủ các quy định của tố tụng hình sự trong việc thu thập tài liệu xác minh giải quyết (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi…), việc chấp hành thời hạn giải quyết (trong trường hợp không phải là những tin phức tạp).
+ Thông qua hoạt động giải quyết của CQĐT, chú trọng phát hiện vi phạm của Công an cấp xã trong việc tiếp nhận, phân loại và chuyển tố giác, tin báo tội phạm đến CQĐT để có văn bản kiến nghị với công an cấp huyện rút kinh nghiệm với Công an cấp xã. Theo tôi đây là một giải pháp quan trọng để Viện kiểm sát có thể tác động tới công an cấp xã trong những hoạt động liên quan đến việc tiếp nhận giải quyết tố giác, tin báo tội phạm. Thực tế cho thấy những dạng vi phạm công an cấp xã thường gặp phải là: Tiếp nhận, xác minh, ghi lời khai, thu thập một số tài liệu ban đầu nhưng không chuyển ngay tin đến CQĐT (thường là những vụ việc cố ý gây thương tích, trộm cắp…), những vụ việc cần phải khám nghiệm hiện trường nhưng không thông báo ngay cho CQĐT để tiến hành khám nghiệm hiện trường dẫn đến không thu thập được đầy đủ vật chứng dấu vết…
+ Hoạt động ban hành quyết định giải quyết của CQĐT, việc ban hành quyết định không khởi tố vụ án hoặc quyết định khởi tố vụ án đúng không, các căn cứ áp dụng để ban hành quyết định đúng hay không? Việc giải quyết có quá thời hạn không? Lý do của việc quá hạn do khách quan hay do tinh thần thái độ làm việc của Điều tra viên.?
Trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thì phải ban hành ngay văn bản kiến nghị Thủ trưởng CQĐT, yêu cầu khắc phục vi phạm.
- Một quyền hạn của Viện kiểm sát được quy định trong Bộ luật hình sự cần được chú trọng và khi có căn cứ thì phải kiên quyết thực hiện đó là ban hành “Yêu cầu khởi tố vụ án”. Đây là một quyền năng pháp lý quan trọng của Viện kiểm sát nhằm tránh bỏ lọt hành vi phạm tội và việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố bị kéo dài.
Bốn là: Hoạt động phối hợp với CQĐT
Hoạt động phối hợp giữa Viện kiểm sát với CQĐT là một trong những biện pháp quan trọng việc làm tốt công tác giải quyết và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đối với những vụ việc phức tạp, những vụ việc khó cần xử lý ngay, Lãnh đạo Viện kiểm sát và Kiểm sát viên phải luôn sẵn sàng cùng CQĐT cùng Điều tra viên phối hợp đánh giá tài liệu, thống nhất các biện pháp và có thể tham gia một số hoạt động điều tra xác minh cùng giải quyết vụ việc. Tuy nhiên không quá đề cao hoạt động phối hợp với CQĐT mà làm giảm đi vai trò vị trí của Viện kiểm sát. Hoạt động phối hợp với CQĐT phải trên nguyên tắc là thực hiện tốt hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát.
Năm là: Về cơ cấu công tác và phối hợp trong công tác kiểm sát
Công tác kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố và công tác kiểm sát việc bắt tạm giữ là hai hoạt động không được tách rời. Thực tế cho thấy, hoạt động kiểm sát việc bắt tạm giữ là một phần trong công tác kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố. Các hoạt động bắt, tạm giữ, gia hạn tạm giữ là hoạt động tố tụng để đánh giá có hay không có hành vi phạm tội để khởi tố vụ án và khởi tố bị can. Đối với những trường hợp bắt nhưng không tạm giữ hoặc hủy bỏ tạm giữ chưa có hình thức giải quyết thì việc kiểm sát giải quyết tố giác tin báo tội phạm đối với những vụ việc này phải thật chặt chẽ; không để xảy ra việc bắt, tạm giữ nhưng không xử lý. Đồng thời kết quả của hoạt động kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố là căn cứ để phê chuẩn hay không phê chuẩn việc bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ hoặc kiểm sát việc bắt, ra quyết định tạm giữ của CQĐT có căn cứ và đúng pháp luật hay không? Khi phê chuẩn Lệnh bắt khẩn cấp, gia hạn tạm giữ cần đóng dấu Bút lục của Viện kiểm sát để đảm bảo không xảy ra việc tùy tiện thêm, bớt tài liệu làm thay đổi nội dung, bản chất của vụ án.
Công tác kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố phải có sự phối hợp chặt chẽ với công tác kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử, trong đó gần nhất là công tác kiểm sát điều tra. Các tài liệu thu thập được, các tài liệu tiến hành trong quá trình kiểm sát giải quyết ban đầu, các thông tin tiếp nhận nằm bắt được trong quá trình kiểm sát tố giác… phải được chuyển giao và trao đổi đầy đủ kịp thời với công tác kiểm sát điều tra.
Sáu là: Cần xác định đúng tầm quan trọng của công tác kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố. Kiểm sát viên được phân công nhiệm vụ này phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp luật để thực hiện tốt được nhiệm vụ kiểm sát và phối hợp tốt với Điều tra viên giải quyết những vụ việc khó, phức tạp; Kiểm sát viên luôn luôn phải có ý thức trách nhiệm cao trong công việc thì mới có thể hoàn thành được những yêu cầu của nhiệm vụ và hoàn thành được chỉ tiêu công tác.
Trên đây là một số ý kiến, giải pháp về công tác kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, tôi mạnh dạn xin được nêu ra với mong muốn được cùng trao đổi với các đồng nghiệp để nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Ngọc Phong - Viện KSND quận Long Biên
Đang truy cập : 13
Tổng lượt truy cập : 1463755