Phòng 9 – Viện KSND TP Hà Nội tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong những năm qua, VKSND Tối cao đã chủ động xây dựng kế hoạch và chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tổ chức thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng trong đó việc tổ chức các phiên tòa rút kinh nghiệm trong toàn ngành kiểm sát nhằm rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn, từng bước nâng cao trình độ của cán bộ, công chức trong ngành nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
Năm 2016, Viện KSND TP Hà Nội tiếp tục xác định việc tổ chức các phiên tòa rút kinh nhiệm là nhiệm vụ trọng tâm theo chỉ đạo và kế hoạch công tác năm của VKSND Tối cao. Tập thể lãnh đạo Viện KSND TP Hà Nội đã quan tâm chỉ đạo sát sao nhiệm vụ này và giao các phòng nghiệp vụ tham mưu cho lãnh dạo viện xây dựng kế hoạch, hướng dẫn kiểm tra các đơn vị Quận huyện triển khai thực hiện.
Ngày 09/09/2016,Phòng 9 Viện KSND TP Hà Nội đã phối hợp cùng TAND TP Hà Nội tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm theo trình tự phúc thẩm đối với vụ kiện Tranh chấp về hôn nhân gia đình giữa:
Nguyên đơn: Phí Văn C - 1976
Bị đơn: Nguyễn Thị N - 1980
Đều cư trú tại: phòng 1608, CT2 khu đô thị Văn Khê, phường La khê, quận Hà Đông, Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ VIỆC
Anh C và chị N kết hôn trên cơ sở tự nguyện và đăng ký tại UBND xã Quang Trung huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh ngày 29/9/2007. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống tại căn hộ của anh C tại thôn Trù 2 xã Cổ Nhuế huyện Từ Liêm. Ngày 11/9/2010 vợ chồng anh C chuyển đến ở tại căn hộ 1608 CT2 khu đô thị Văn Khê, P.La khê, Q.Hà Đông, Hà Nội. Khoảng năm 2011, do hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên sống ly thân. Từ năm 2012 đến nay vợ chồng anh C, chị N vẫn sống chung nhà nhưng ăn uống sinh hoạt riêng và không quan tâm gì đến nhau nữa. Nay do xác định không còn tình cảm nên anh chị thuận tình ly hôn. Anh chị có 01 con chung là cháu Phí Minh Đ sinh ngày 19/4/2008, anh chị đều có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu đóng góp nuôi con.
Về tài sản chung gồm:
+ 01 ô tô BKS 30A-143-22 anh chị thỏa thuận để anh C tiếp tục sử dụng và thanh toán cho chị N 400.000.000đ.
+ 01 căn hộ phòng 1608, CT2 khu đô thị Văn Khê, phường La khê, quận Hà Đông, Hà Nội, khi ly hôn cả hai đều có nguyên vọng tiếp tục được sử dụng và thanh toán cho phía còn lại ½ giá trị tài sản.
Bản án sơ thẩm số 18/2016/HNGĐ-ST ngày 20/06/2016 của TAND quận Hà Đông Quyết định:
1. Công nhận thuận tình ly hôn giữa anh C và chị N.
2. Giao anh C nuôi con chung là cháu Phí Minh Đ sinh ngày 19/4/2008. Chấp nhận sự tự nguyện của anh C không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
3. Ghi nhận sự tự nguyện anh C sở hữu xe ô tô BKS 30A-143-22 và anh C thanh toán cho chị N 400.000.000đ.
4. Giao anh C tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán nhà số 1608 và quản lý sử dụng căn hộ số 1608 – CT2 khu đô thị Văn quán, La khê, Hà Đông Hà Nội buộc anh C thanh toán cho chị N 1.050.000.000đ.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và một số nội dung khác.
Ngày 30/6/2016 chị N kháng cáo bản án xin dược nuôi con chung là cháu Đ và xin được sở hữu căn hộ số 1608 – CT2 khu đô thị Văn quán, La khê, Hà Đông Hà Nội và xin thanh toán cho anh C 1.050.000.000đ.
Ngày 04/07/2016 VKSND quận Hà Đông ban hành Quyết định số 03/QĐKNPT-HNGĐ kháng nghị theo trình tự phúc thẩm đối với Bản án sơ thẩm số 18/2016/HNGĐ-ST ngày 20/06/2016 của TAND quận Hà Đông và nhận định theo lời khai của chị Ni và anh C thì chị N đã bị cắt vòi chứng khó có khả năng sinh con, hiện nay chị N chưa có chỗ ở phải đi thuê nhà. Bản án giao cháu Đ cho anh C nuôi và giao căn hộ 1068 cho anh C sử dụng là chưa bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người phụ nữ, án sơ thẩm đưa thiếu người tham gia tố tụng (anh Nguyễn Tuấn T và chị Bùi Thị Ng), đề nghị hủy án sơ thẩm do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

(Phiên tòa rút kinh nghiệm Phòng 9 Viện KSND TP Hà Nội thực hiện)
Ngày 09/09/2016, TAND TP Hà Nội tiến hành xét xử theo trình tự phúc thẩm đối với vụ án trên. Tại phiên tòa, KSV đã phối hợp cùng HĐXX hỏi các đương sự làm rõ những nội dung và vấn đề liên quan đến kháng cáo và kháng nghị của bản án, trên cơ sở các tài liệu chứng cứ thu thập tại cấp phúc thẩm và kết quả tranh luận giữa các đương sự, đại diện Viện KSND TP Hà Nội tham gia phiên tòa nhận định:
- Việc xác định người tham gia tố tụng của tòa án cấp sơ thẩm
+ Tòa án cấp sơ thẩm xác định anh Nguyễn Tuấn T là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến căn hộ số 1068 – CT2 khu đô thị Văn quán, La khê, Hà Đông Hà Nội, UBND quận Hà Đông cấp GCNQSD đất và QSH nhà ở và các tài sản khác trên đất mang tên anh Nguyễn Tuấn T (tài sản chung của anh C, chị N được yêu cầu chia);
+ Tài liệu hồ sơ thể hiện nguồn gốc căn hộ số 1068 là của anh Nguyễn Tuấn T mua của Tổng công ty Sông Đà 6 theo HĐ số 1068 ngày 15/12/2007, đến ngày 03/03/2009 anh T bán căn hộ trên cho chị Bùi Thị H nhưng do chủ đầu tư chưa bàn giao căn hộ nên hai bên ký hợp đồng ủy quyền cho chị Bùi Thị H được tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán mà anh T đã ký với TC ty Sông Đà 6.
+ Ngày 08/4/2010, chị H bán lại căn hộ trên cho vợ chồng anh C, chị N với giá 2.150.000.000đ nhưng vẫn dưới hình thức ký hợp đồng ủy quyền như trên cho anh C tiếp tục thực hiện hợp đồng. Anh C, chị N sử dụng căn hộ trên từ năm 2010
+ Ngày 05/10/2012, căn hộ số 1608 được UBND quận Hà Đông cấp GCNQSD đất và QSH Nhà ở và các tài sản khác trên đất mang tên anh Nguyễn Tuấn T. Ngày 2/11/2014, anh C làm đơn xin ly hôn.
Tại cấp phúc thẩm, anh T có tường trịnh việc đã chuyển nhượng căn hộ cho chị Bùi Thị H, theo hợp đồng thì chị H toàn quyền định đoạt căn hộ trên, anh không còn liên quan và có quyền lợi gì đối với căn hộ trên kể từ ngày chuyển nhượng cho chị H, như vậy tường trình của anh T phù hợp lời khai của anh C, chị N và chị H, do đó không cần thiết đưa anh T tham gia tố tụng.
- Việc nuôi con chung.
Nguyện vọng của anh C và chị N được nuôi con chung thể hiện tình cảm và trách nhiệm của cha mẹ đối với con chung. Tuy nhiên, việc giao con chung cho ai nuôi dưỡng phải đảm bảo nguyên tắc giúp cho đứa trẻ có điều kiện tốt nhất để phát triển bình thường, tránh những xáo trộn cuộc sống không cần thiết làm tổn thương tinh thần cho cháu bé, hiện tại cháu Đ đang sinh sống cùng anh C và ông bà nội và đi học bình thường, Tòa án đã ghi ý kiến của cháu Đ và cháu thể hiện không muốn bố mẹ ly hôn, nếu bố mẹ phải ly hôn cháu ở với ai cũng được. Theo trình bày của chị H thì chị không còn khả năng sinh con do bị cắt vòi trứng, tuy nhiên chị không xuất trình được tài liệu chứng cứ chứng minh, hơn nữa theo tài liệu các bên xuất trình thì hiện nay anh Cương có thu nhập ổn định 45.000.000đ/ tháng, chị Ninh có thu nhập 17.000.000đ/ tháng, mặc dù với mức thu nhập như trên cả hai anh chị đều có khả năng nuôi con nhưng anh Cương có khả năng tốt hơn về điều kiện vật chất, hơn nữa hiện tại cháu Phí Minh Đ sinh ngày 19/4/2008 đang sinh sống cùng bố, do đó Tòa án sơ thẩm giao anh C nuôi là đúng PL.
- Việc chia tài sản chung
Căn cứ lời khai của anh C chị N, chị L và anh T có căn cứ xác định căn hộ số 1608 – CT2 khu đô thị Văn quán, La khê, Hà Đông Hà Nội là tài sản chung của anh C và chị N đã mua của chị Bùi Thị H, hiện tại chị N không có chỗ ở, phải đi thuê nhà, cần giao cho chị N tiếp tục thực hiện việc hoàn thiện thủ tục chuyển nhượng căn hộ và có trách nhiện thanh toán cho anh C ½ giá trị căn hộ. Tại phiên tòa anh C và chị N thỏa thuận để chị N được sở hữu căn hộ và thanh toán giá trị chênh lệch cho anh C. Thỏa thuận trên không vi phạm PL và không trái đạo đức xã hội nên ghi nhận.
Từ những phân tích đánh giá trên, KSV tham gia phiên tòa đã căn cứ khoản 2 điều 284 BLTTDS năm 2015 rút một phần kháng nghị số 03/QĐKNPT-HNGĐ ngày 04/07/2016 của VKSND quận Hà Đông (Phần thiếu người tham gia tố tụng), đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng khoản 2 điều 308 BLTTDS chấp nhận một phần kháng nghị của VKSND Quận Hà Đông, chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, sửa án sơ thẩm ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự giao cho chị N được sở hữu và hoàn thiện thủ tục sang tên căn hộ số 1608 – CT2 khu đô thị Văn quán, phường La khê, quận Hà Đông TP Hà Nội và thanh toán ½ giá trị căn hộ cho anh C, giữ nguyên các nội dung khác của bản án sơ thẩm.
Hội đồng xét xử sau khi nghị án, đã tuyên bản án phúc thẩm như đề nghị của VIệN KSND TP Hà Nội.
Sau khi kết thúc phiên tòa, Lãnh đạo phòng 9 cùng tập thể cán bộ - KSV của phòng tiến hành họp rút kinh nghiệm đối với phiên tòa.

(Cán bộ, KSV Phòng 9 dự phiên tòa rút kinh nghiệm)
Kết quả đạt được:
- Phiên tòa đã bám sát chỉ tiêu kế hoạch, lãnh đạo đơn vị có sự quan tâm chỉ đạo sát sao trong việc triển khai tổ chức thực hiện (xác định vụ án, phân công KSV nghiên cứu hồ sơ, duyệt án…vv) .
- Tiêu chí và nội dung vụ án rút kinh nghiệm đúng với hướng dẫn tại công văn số 1448/VKSTC-V5 ngày 10/5/2013 của Vụ 5 VKSND Tối Cao.
- Sự phối hợp chặt chẽ giữa VKS và TANDTP Hà Nội nên phiên tòa diễn ra đúng yêu cầu (công tác chuẩn bị trước phiên tòa , lực lượng bảo vệ…vv).
- KSV đã phát huy được vai trò và vị thế của VKS, yêu cầu thẩm phán thu thập bổ sung tài liệu chứng cứ theo quy định của pháp luật, trước phiên tòa đã nghiên cứu kỹ hồ sơ báo cáo đầy đủ và chính xác nội dung vụ án đồng thời đề xuất quan điểm đường lối giải quyết vụ án với lãnh đạo phòng và lãnh đạo viện phụ trách khối, tại phiên tòa đã tích cực chủ động hỏi các đương sự làm rõ những nội dung của kháng cáo, kháng nghị và những nội dung khác của bản án sơ thẩm, xử lý nhanh chóng và đúng pháp luật những tình huống phát sinh ngoài dự kiến tại phiên tòa.
- Kết quả phiên tòa ngoài yêu cầu tuân thủ việc xét xử đúng quy định của pháp luật, giúp đội ngũ cán bộ kiểm sát có thêm được những kinh nghiệm cần thiết thì bản án cũng thể hiện tính nhân văn sâu sắc về “Giới ” bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ khi ly hôn.
Qua bài vụ án trên, tôi xin trao đổi thêm cùng các đồng nghiệp về tổ chức một phiên tòa rút kinh nghiệm trong lĩnh vực dân sự - hôn nhân gia đình thông qua một phiên tòa rút kinh nghiệm của phòng 9 Viện KSND TP Hà Nội, để các đồng nghiệp cùng tham khảo.
1-Lãnh đạo các đơn vị thường xuyên quán triệt đến cán bộ công chức trong đơn vị thực hiện tốt các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, xây dựng kế hoạch công tác của đơn vị mình bám sát chỉ thị của Viện trưởng VKSNDTC và kế hoạch của VIệN KSND TP Hà Nội, phù hợp đặc điểm tình hình của địa phương đơn vị, tránh tình trạng không tổ chức được phiên tòa rút kinh nghiệm hoặc xác định vụ án không đúng tiêu chí yêu cầu (một số địa phương ít án hoặc có địa phương có án nhưng tòa án ngại bị hủy nên kéo dài thời gian chuẩn bị xét xử gây áp lực căng thẳng cho đương sự để đén khi đương sự mệt mỏi hòa giải mới giải quyết xong vụ án).
2-Khi xác định án rút kinh nghiệm cần lưu ý xác định đúng tiêu chí yêu cầu theo hương dẫn số 1448/VKSTC-V5 ngày 10/5/2013 của Vụ 5 VKSND Tối Cao, phải quán triệt ý nghĩa mục đích yêu cầu là két quả tổ chức rút kinh nghiệm nhằm nâng cao trình độ lý luận và kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ công chức kiểm sát, phát huy vai trò vị thế của KSV và ngành kiểm sát (nhiều đơn vị do chưa hiểu đúng ý nghĩa yêu cầu của việc tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm, sợ ảnh hưởng thành tích nên không mạnh rạn xác định vụ án khó nên xác định vụ án không đúng yêu cầu).
3-Khi đã xác định được vụ án đúng yêu cầu, cần phân công KSV có năng lực giải quyết vụ án, lãnh đạo đơn vị cần trao đổi thống nhất cùng lãnh đạo Tòa án cùng cấp để thống nhất chỉ đạo công tác chuản bị tổ chức phiên tòa ( nhiêu đơn vị giao cho KSV trao đổi với thẩm phán nhưng không có sự chỉ đạo của lãnh đạo tòa án nên không có sự chuẩn bị chu đáo dẫn đến phải hoãn phiên tòa do nhiều lý do khác nhau).
4-KSV được phân công cần nghiên cứu kỹ hồ sơ, báo cáo lãnh đạo đơn vị, đồng thời chuẩn bị đề cương hỏi và những tình huống phát sinh, trường hợp tình huống ngoài dự kiến cần có ứng xử nhanh và đúng pháp luật.
5-Kết thúc phiên tòa cần tổ chức kiểm điểm rút kinh nghiệm ngay, cần khuyến khích cán bộ công chức mạnh rạn phát biểu ý kiến đóng góp xây dựng, tạo không khí hào hứng và sôi nổi để cán bộ trẻ tham gia đóng góp để tích lũy kinh nghiệm thực tế.
Trên đây là một số ý kiến của cá nhân tôi thông qua một phiên tòa rút kinh nghiệm tại Viện KSND TP Hà Nội, xin được chia xẻ để các đồng nghiệp tham khảo.
Đỗ Đức Sơn - Phòng 9