Một số kinh nghiệm, kỹ năng thực hiện công tác kiểm sát kế toán thi hành án dân sự
Kiểm sát lĩnh vực kế toán thi hành án dân sự trong các năm qua luôn là một vấn đề khó và nan giải trong quá trình kiểm sát thi hành án dân sự, Phòng 11 VKSND thành phố Hà Nội đã nghiêu cứu và đưa ra nhiều biện pháp nghiệp vụ nhằm kiểm sát tốt hơn, chặt chẽ hơn ở khâu công tác này, qua đó đã đem lại hiệu quả nhất định, đã phát hiện nhiều tồn tại, vi phạm trong thu, chi, quản lý tiền, tài sản, tang vật... thi hành án dân sự như sau:
I. THỰC TRẠNG VÀ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG THỰC HIỆN KIỂM SÁT KẾ TOÁN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1. Một số khó khăn, vướng mắc
Để thực hiện kiểm sát có hiệu quả hoạt động tổ chức thi hành án dân sự nói chung, kiểm sát hoạt động kế toán thi hành án dân sự nói riêng đòi hỏi Kiểm sát viên phải nắm chắc quy định của pháp luật, đồng thời có kinh nghiệm trong kiểm sát thi hành án dân sự, đặc biệt có kiến thức cơ bản về công tác kế toán và nắm chắc quy định hướng dẫn trong hoạt động kế toán thi hành án dân sự (quy định tại Thông tư 91/2010, Thông tư 78/2020) mới thực hiện kiểm sát có hiệu quả công tác kế toán thi hành án. Nhưng, thực tế Kiểm sát viên, Công chức được phân công phụ trách khâu nghiệp vụ kiểm sát thi hành án dân sự không có chuyên môn về kế toán, mặt khác đa phần Kiểm sát viên tại Viện kiểm sát cấp huyện được phân công kiêm nhiệm thêm một số lĩnh vực công tác khác nên thời gian đầu tư nghiên cứu chuyên môn ở lĩnh vực kiểm sát thi hành án bị thu hẹp, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng, hiệu quả kiểm sát thi hành án
1.1. Một số nội dung vi phạm nguyên tắc kế toán trong lĩnh vực thi hành án dân sự tại địa phương được phát hiện, đã có kiến nghị, kháng nghị nhưng Cơ quan THADS chưa thể khắc phục được do:
- Vi phạm xảy ra đã lâu, từ các đời thủ trưởng cơ quan THADS trước đây (đã huy động khắc phục nhưng không tìm đầy đủ chứng từ gốc (biên lai, phiếu thu);
- Vi phạm trong giai đoạn chuyển đổi sử dụng hệ thống phần nềm kế toán mới (phần mền MISA) như: nhập chung nhiều đối tượng một
- Số tiền tồn tạm ứng án phí, tạm thu trước án quá lớn, trong đó có nhiều khoản đã tồn trên 5-10 năm, đã phối hợp liên ngành: THADS-TA-VKS rà soát chuyển giao bản án, quyết định có hiệu lực để đưa ra thi hành … nhưng không hiệu quả. Do việc cung cấp thông tin của cơ quan THADS không cụ thể như: không số, ngày biên lai thu, đối tượng, nội dung tạm thu… nên khó khăn trong việc rà soát vụ việc cụ thể.
1.2. Khó khăn về ra quết đinh thi hành án theo điểm c khoản 4 điều 7 nghị định 33/2020: về quyền thăm nom
Điểm C khoản 4 Điều 7 NGhị định 33/2020 về ra quyết định thi hành án theo yêu cầu, quy định
“4. Cơ quan thi hành án dân sự từ chối yêu cầu thi hành án đối với bản án, quyết định không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các đương sự theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự trong trường hợp bản án, quyết định không xác định rõ khoản phải thi hành hoặc không xác định rõ người phải thi hành án, trừ các trường hợp:
c) Giao quyền thăm nom, chăm sóc người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người không có khả năng lao động cho người được thi hành án không trực tiếp nuôi dưỡng”
Đồng thời khoản 4 Điều 13 Nghị định 33/2020 về áp dụng biện pháp bảo đảm và cưỡng chế thi hành án, quy định
“4. Tài sản đã được giao trên thực tế cho người được nhận tài sản và người đó đã ký nhận vào biên bản giao, nhận tài sản nhưng sau đó bị chiếm lại thì cơ quan thi hành án dân sự không có trách nhiệm giao lại tài sản cho người được nhận tài sản”
Đồng thời Cục THADS cũng hướng dẫn áp dụng tương tự với trường hợp cưỡng chế giao con chưa thành niên. Tuy nhiên, đối với trường hợp thăm nom thì thời gian, phương thức, số lần thăm nom và việc tổ chức thi hành án đối với đơn yêu cầu được thăm nom con chung chưa thành niên chưa có hướng dẫn.
Đề nghị Viện kiểm sát tối cao sớm có kiến nghị, đề nghị Chính phủ có hướng dẫn thi hành khó khăn nêu trên
2. Một số vi phạm được phát hiện trong công tác kiểm sát kế toán thi hành án
Trong các năm qua, phòng 11 rất chú trọng về công tác kiểm sát kế toán nghiệp vụ thi hành án dân sự, thực hiện trong đa số các lượt kiểm sát trực tiếp, qua đó phát hiện rất nhiều tồn tại, vi phạm trong nghiệp vụ kế toán THADS và tác nghiệp khác của Chấp hành viên về thủ tục tổ chức thi hành án, điển hình một số dạng vi phạm được phát hiện như sau:
2.1. Vi phạm trong việc hạch toán sai tài khoản; không gửi tiết kiệm
Các khoản thu tiền bồi thường, tiền nợ, tiền thanh toán thừa kế… của đương sự qua xử lý tài sản theo quyết định thi hành án, nhưng người được thi hành án chưa đến nhận, kế toán hạch toán vào tài khoản 3378-các khoản tạm giữ chờ xử lý khác là không chính xác (tài khoản đúng là 3376: thu tiền bán tài sản để thi hành án), đồng thời không thực hiện gửi tiết kiệm
Các khoản thu tiền tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp, kế toán đơn vị đã hạch toán vào TK 3378 là không chính xác (tài khoản đúng là 3373: thu tạm ứng chi phí ủy thác tư pháp)
2.2. Vi phạm khi không xử lý tiền bán tài sản THA
Trên TK 3376 còn tồn tiền: tiền thuế chuyển nhượng QSDĐ (2%) Chấp hành viên để lại khi người mua trúng đấu giá thực hiện việc chuyển nhượng; tiền thừa sau khi xử lý tài sản chi trả cho đương sự còn… tồn nhiều năm trên tài khoản chưa xử lý
2.3. Vi phạm trong việc trả lại tiền cho người phải thi hành án
- Trên TK 3375 - thu trước quyết định thi hành án, như đương sự tự nguyện bồi thường trong giai đoạn truy tố, xét xử, khi có quết định thi hành án chi trả cho người được thi hành án còn thừa, nhưng Chấp hành viên không chi trả lại cho đương sự.
- Trên TK 33111 còn tồn tiền chuyển từ tài khoản tang vật của CQCSĐT chuyển sang sau khi xử lý còn thừa không làm thủ tục trả lại cho đương sự.
2.4. Vi phạm trong việc hoàn trả tạm ứng chi phí cưỡng chế, kê biên quá hạn (TK 141)
Trên tài khoản 141-tạm ứng chi phí cưỡng chế, kê biên, nhiều quyết định thi hành án nợ tạm ứng chi phí cưỡng chế, Chấp hành viên chưa làm thủ tục hoàn ứng, nhưng vụ việc đã được phân loại thi hành xong.
2.5. Vi phạm trong việc theo dõi nhập xuất kho tang vật
Trên TK 366 còn tồn tiền, tang vật gồm: điện thoại di động, các gói ma túy đã niêm phong…. Nhưng thực tế, số tiền đã xử lý, vật chứng đã được tiêu hủy và chuyển giao cơ quan tài chính sung công theo quy định.
II. NHỮNG KINH NGHIỆM THỰC TIỄN TRONG QUÁ TRÌNH KIỂM SÁT:
1. Về năng lực, kinh nghiệm của Kiểm sát viên
Để thực hiện kiểm sát có hiệu quả hoạt động tổ chức thi hành án dân sự nói chung, kiểm sát hoạt động kế toán thi hành án dân sự nói riêng đòi hỏi Kiểm sát viên phải nắm chắc quy định của pháp luật, đồng thời có kinh nghiệm kiểm sát thi hành án dân sự, đặc biệt nắm chắc quy định hướng dẫn trong hoạt động kế toán thi hành án dân sự, đồng thời cần có một số kỹ năng như:
- Đọc và hiểu được báo cáo tài chính kế toán thi hành án: đòi hỏi Kiểm sát viên cần biết một số nội dung về nghiệp vụ kế toán, nắm vững trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
- Nắm chắc nhiệm vụ, nội dung của từng tài khoản trên hệ thống tài khoản kế toán thi hành án;
- Yêu cầu Kế toán hoặc Chấp hành viên giải trình, cung cấp hồ sơ tài liệu có liên quan đến các tiểu mục, tài khoản, số liệu trên báo cáo tài chính.
2. Về công tác phối hợp
Trong quá trình kiểm sát trực tiếp, phân công 1 kiểm sát viên có kinh nghiệm trong kiểm sát kế toán thi hành án có nhiệm vụ nghiên cứu, kiểm tra lĩnh vực kế toán, đồng thời thường xuyên phối hợp với các thành viên khác trong đoàn kiểm sát kiểm tra hồ sơ có liên quan, hoặc yêu cầu kế toán giải trình về số liệu;
Phối hợp kịp thời với các cơ quan có liên quan để tiến hành xác minh về hoạt động tổ chức thi hành án./.
Bùi Hồng Kiên, Nguyễn Thị Chi Lan - Phòng 11