Thực tiễn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, một số hạn chế, bất cập và một số kiến nghị, giải pháp khắc phục

13/09/2023 13:02 | 88 | 0

        Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016, được xây dựng, ban hành trên cơ sở kế thừa các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; pháp điển hóa một số quy định trong các Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và một số văn bản pháp quy khác hướng dẫn về quá trình thụ lý, giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật; khắc phục những vướng mắc, bất cập từ thực tiễn công tác giải quyết các vụ việc dân sự.

        Sau khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực và thi hành, nhìn chung các quy định của BLTTDS đã đáp ứng được các yêu cầu thực tiễn và các yêu cầu về công tác thụ lý, giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, tạo hành lang pháp lý tốt cho quá trình tiến hành tố tụng. Bên cạnh đó, các quy định mới còn tạo điều kiện cho người tham gia tố tụng thực hiện, bảo vệ các quyền của mình, khẳng định được vị trí, vai trò của VKS nhân dân trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, đồng thời nâng cao chất lượng xét xử, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Nhà nước, của pháp nhân và của công dân.

        Trong phạm vi của bài viết, xin đề cập đến một số hạn chế, bất cập của BLTTDS 2015 với một số quy định còn chưa rõ ràng, cách hiểu, cách làm còn chưa thống nhất; một số quy định ở từng phần, từng chương, từng điều luật của Bộ luật chưa liên kết, bổ trợ cho nhau, có một số quy định tạo nên sự cản trở nhau không cần thiết.

        I. Một số hạn chế, bất cập trong quy định của BLTTDS năm 2015

        1. Về những quy định chung

        1.1. Về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử

       Khoản 2 Điều 24 BLTTDS 2015 quy định về bảo đảm tranh tụng trong xét xử: “Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án dân sự và có nghĩa vụ thông báo cho nhau các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác theo quy định của Bộ luật này”. Tuy nhiên, trên thực tế các đương sự không thông báo cho nhau các tài liệu chứng cứ đã giao nộp theo luật quy định nhưng Luật tố tụng cũng không có quy định nào về chế tài đối với đương sự không thực hiện nghĩa vụ. Vấn đề này gây rất nhiều khó khăn cho công tác thu thập chứng cứ, ảnh hưởng đến việc tranh tụng của các đương sự và thời hạn giải quyết án. 

        1.2. Vị trí, vai trò của VKSND; nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên trong TTDS:

        - Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Khoản 2 Điều 57 BLTTDS 2015 quy định: "Khi Viện trưởng vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, trừ quyền quyết định kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều này. Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được ủy nhiệm".

        Như vậy, theo quy định của , chỉ Viện trưởng mới có thẩm quyền ký quyết định kháng nghị, quy định này gây khó khăn cho công tác kháng nghị của VKS, nhất là VKS cấp tỉnh. Vì thời hạn kháng nghị ngắn (07 ngày đối với quyết định, 15 ngày đối với bản án của Tòa án cùng cấp; 10 ngày đối với quyết định; 30 ngày đối với bản án của Tòa án cấp dưới) và còn phụ thuộc vào việc chuyển bản án của VKS cấp huyện, việc chuyển hồ sơ của tòa án cấp sơ thẩm cho VKS có thẩm quyền ban hành kháng nghị; trong khi Viện trưởng VKSND cấp tỉnh giải quyết nhiều công việc, nên có thể xảy ra trường hợp thời hạn kháng nghị sắp hết nhưng đồng chí Viện trưởng đi công tác không thể ký kháng nghị. Nếu Phó Viện trưởng được ủy quyền ký thì sẽ không đúng quy định tại Điều 57

        - Về nghiên cứu hồ sơ, theo quy định tại Khoản 3 Điều 58, Điều 220 BLTTDS 2015 thì khi Thẩm phán chuyển hồ sơ vụ án cùng quyết định đưa vụ án ra xét xử cho VKS. Nếu KSV nghiên cứu hồ sơ đánh giá tài liệu, chứng cứ chưa đảm bảo cho việc xét xử thì thực hiện quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, thời gian nghiên cứu hồ sơ của VKS để tham gia phiên tòa là 15 ngày, trong thời gian này vừa nghiên cứu hồ sơ, vừa đề ra yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ là rất khó thực hiện. Mặt khác, quyết định đưa vụ án ra xét xử đã được Thẩm phán ấn định ngày giờ cụ thể mở phiên tòa, vậy nên nếu như đến ngày xét xử mà Tòa án không thu thập, xác minh được chứng cứ theo yêu cầu của VKS thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử. Trong trường hợp này, chức năng của VKS không được thực hiện một cách hiệu quả, nghiêm túc.

        - Đối với việc thực hiện kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án, Điều 5 Thông tư liên tịch số 02/2016 quy định: “1. Việc chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho VKS để xem xét kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, . . .  được thực hiện như sau: b) Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu, Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có văn bản yêu cầu”.

        Tuy nhiên, thực tế việc yêu cầu chuyển hồ sơ vụ án cho VKS chưa được Tòa án thực hiện nghiêm túc, nhiều trường hợp Tòa án chỉ chuyển hồ sơ khi đã hết thời hạn kháng nghị phúc thẩm thậm chí không chuyển hồ sơ. Việc chuyển hồ sơ chậm của Tòa án làm ảnh hưởng đến quyền kháng nghị của VKS, dẫn đến số lượng kháng nghị phúc thẩm không nhiều so với án bị cấp trên hủy, sửa.

        - Về thời hạn gửi văn bản trả lại đơn khởi kiện: Theo quy định tại Khoản 2 Điều 192 BLTTDS 2015 quy định: “Khi trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Thẩm phán phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho VKS cùng cấp”.

        Nội dung điều luật đã quy định Thẩm phán phải có văn bản nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện và gửi cho VKS cùng cấp nhưng lại không quy định trong thời hạn bao lâu kể từ ngày có văn bản trả lại đơn khởi kiện thì Thẩm phán phải gửi cho VKS để VKS kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện có đúng quy định hay không nhằm thực hiện quyền kiến nghị theo quy định của pháp luật. Thực tế nhiều trường hợp khi đương sự có đơn khiếu nại việc trả lại đơn khởi kiện của Thẩm phán và gửi đến VKS thì VKS mới nắm được Tòa án đã trả đơn khởi kiện cho đương sự.

        Cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 192 BLTTDS 2015  quy định “…Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu”.

        Như vậy, điều luật chỉ quy định Tòa án sao chụp và lưu tài liệu để làm cơ sở cho việc giải quyết khiếu nại, kiến nghị chứ không quy định phải gửi các tài liệu liên quan đến việc trả lại đơn khởi kiện cho VKS gây khó khăn cho việc kiểm sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện. Mặt khác, khoản 1 Điều 21 Thông tư liên tịch số 02/2016 thì “Trường hợp Viện kiểm sát cần xem xét kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu hoặc sau khi nhận được thông báo mở phiên họp giải quyết khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì Viện kiểm sát gửi văn bản yêu cầu Tòa án cho sao chụp một số hoặc toàn bộ bản sao đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ”, như vậy chỉ trong trường hợp cần xem xét kiến nghị VKS mới có văn bản yêu cầu Tòa án cho sao chụp tài liệu chứ không phải trong mọi trường hợp trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, VKS đều có quyền yêu cầu sao chụp tài liệu, chứng cứ. Quy định này cũng gây rất nhiều khó khăn, cản trở cho quá trình kiểm sát căn cứ trả lại đơn khởi kiện.

        Về kiểm sát thông báo thụ lý, theo quy định tại Khoản 1 Điều 196 BLTTDS thì "Trong thời hạn 03 ngày làm việc, Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho nguyên đơn, bị đơn, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án".

        Luật và các văn bản hướng dẫn không quy định về việc Tòa án phải gửi các tài liệu, chứng cứ kèm theo Thông báo thụ lý cho VKS cùng cấp. Do vậy, khi kiểm sát Thông báo thụ lý, Kiểm sát viên không thể kiểm sát chặt chẽ các nội dung thông báo thụ lý của Tòa án, không phát hiện được vi phạm trong giai đoạn thụ lý.

        - Về quy định tham gia phiên tòa của Kiểm sát viên: Theo quy định tại khoản 1 Điều 232, khoản 1 Điều 296, khoản 1 Điều 367 BLTTDS năm 2015 thì: Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa, phiên họp (sơ thẩm hoặc phúc thẩm) mà vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc xét xử, không hoãn phiên tòa, trừ trường hợp VKS kháng nghị phúc thẩm. Quy định này gây khó khăn trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự vì: Việc phân công KSV kiểm sát giải quyết vụ án và tham gia phiên tòa được thực hiện khi Tòa án gửi thông báo thụ lý vụ án cho VKS, trong khi đó thời gian đưa vụ án ra xét xử là do Thẩm phán chủ động quyết định nên thực tế xảy nhiều trường hợp một Kiểm sát viên có 02 hoặc nhiều vụ án cùng lên lịch xét xử cùng một thời gian, hoặc cũng có trường hợp tuy lịch xét xử Tòa án lên không trùng nhưng do vụ án kéo dài nhiều ngày dẫn đến trùng với thời gian xét xử của vụ án khác mà không có Kiểm sát viên dự khuyết, hoặc đến ngày xét xử KSV được phân công ốm đau đột xuất không thể tham gia phiên tòa, trong những trường hợp này Kiểm sát viên không tham gia được phiên tòa, việc ra quyết định thay đổi KSV tham gia phiên tòa không thực hiện được, không gửi kịp cho đương sự để họ thực hiện quyền đề nghị thay đổi Kiểm sát viên.

        Thậm chí nhiều trường hợp gần đến ngày xét xử Tòa án án mới chuyển hồ sơ vụ án cho VKS để nghiên cứu. Do thời gian ngắn KSV chưa có sự chuẩn bị nội dung để tham gia phiên tòa hoặc qua nghiên cứu hồ sơ thấy có nhiều nội dung cần yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ nhưng không còn thời gian để thực hiện nhưng nếu Kiểm sát viên tham gia phiên tòa vắng mặt thì Tòa án vẫn xử dẫn đến việc tham gia phiên tòa 100% theo chỉ thị của Ngành là không đáp ứng yêu cầu.

        Mặt khác, theo quy định mới của BLTTDS năm 2015 thì số lượng công việc của VKS tăng lên đáng kể do việc nghiên cứu án để tham gia phiên toà. Tuy vậy, số lượng Kiểm sát viên, cán bộ của Phòng nghiệp vụ và cán bộ phụ trách công tác dân sự của các VKS cấp huyện còn ít nên phần nào ảnh hưởng đến chất lượng công tác giải quyết án dân sự.

        - Về thời hạn gửi bài phát biểu của Kiểm sát viên cho Toà án: tại các điều 262, 306, 375, 341 BLTTDS 2015 quy định: "Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án" là không phù hợp với thực tiễn xét xử, bởi vì: Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa, phiên họp không những phải căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án mà còn phải căn cứ vào diễn biến trực tiếp tại phiên tòa nên bản phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên có thể được chỉnh sửa về nội dung và hình thức văn bản sau khi nắm bắt diễn biến trực tiếp tại phiên tòa. Mặt khác, bài phát biểu còn phải được đóng dấu của VKS mới có giá trị pháp lý nên không thể gửi ngay cho Tòa án sau khi kết thúc phiên tòa, phiên họp.

        - Về việc kiểm sát biên bản phiên tòa, theo quy định tại khoản 4 Điều 236 BLTTDS 2015 thì “Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng có quyền được xem Biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào Biên bản phiên tòa và ký xác nhận”.

        Phiên tòa dân sự, HNGĐ thường có nhiều vụ việc phức tạp, phiên tòa kéo dài vài ngày, sử dụng nhiều tài liệu, chứng cứ, áp dụng nhiều văn bản pháp luật qua nhiều thời kỳ cần phải có sự ghi chép đầy đủ, cẩn thận hơn nữa, tại phiên tòa có nhiều diễn biến bất ngờ, phức tạp và thường diễn ra rất nhanh. Do vậy, thư ký phiên tòa phải ghi lạị diễn biến phiên tòa bằng nhiều hình thức như: viết tay, đánh máy, ghi âm... Việc ghi lại các tình tiết và diễn biến phiên tòa vào biên bản phiên tòa nhiều khi thiếu sót hoặc nhầm lẫn. Thực tế hiện nay phần lớn các biên bản phiên tòa đều được đánh máy vi tính.

        Mặt khác, đối với những vụ án có luật sư tham gia, luật sư thông thường đã chuẩn bị sẵn bài luận cứ và trình bày rất dài để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà họ bảo vệ nên thư ký phải mượn bản luận cứ để trích xuất ghi nhận ý kiến vào biên bản phiên tòa. Vì vậy ngay sau khi kết thúc phiên tòa, thư ký chưa kịp hoàn chỉnh biên bản phiên tòa để Kiểm sát viên kiểm tra. Qua thực tế kiểm sát việc xét xử của Tòa án nhận thấy, sau khi phiên tòa kết thúc, thư ký phiên tòa vẫn chưa hoàn thiện xong biên bản phiên tòa ngay mà phải vài ngày sau mới ban hành được văn bản này nên việc kiểm tra biên bản phiên tòa ngay sau khi phiên tòa kết thúc là rất khó thực hiện.

        Mặt khác, tại Điều 23 Thông tư liên tịch số 02/2016 quy định: “Sau khi kết thúc phiên tòa, phiên họp, Kiểm sát viên có quyền xem biên bản phiên tòa, phiên họp, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản. Yêu cầu của Kiểm sát viên được thực hiện ngay và Kiểm sát viên ký xác nhận những nội dung sửa đổi, bổ sung theo quy định tại khoản 4 Điều 236 BLTTDS”.

        Như vậy, KSV được phân công tham gia phiên tòa là người kiểm sát hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng (Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa) và những người tham gia tố tụng. Tuy nhiên căn cứ vào các quy định trên thì KSV chỉ có quyền xem biên bản phiên tòa mà không có quyền ký xác nhận vào biên bản phiên tòa, trừ trường hợp KSV yêu cầu sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa. Việc quy định như trên dẫn đến tình trạng công tác kiểm sát biên bản phiên tòa đạt hiệu quả không cao; hạn chế chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS.

        - Về kháng nghị của VKS, theo quy định tại Khoản 2 Điều 280 BLTTDS 2015 thì thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày VKS cùng cấp nhận được quyết định. Trong thời hạn 07 ngày trên, VKS phải vào sổ theo dõi và kiểm sát quyết định. Trường hợp phát hiện, quyết định, tạm đình chỉ, đình chỉ của Tòa án có vi phạm VKS yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ nhưng trên thực tế, Tòa án thường đưa ra nhiều lý do để trì hoãn và kéo dài dẫn đến hết thời hạn kháng nghị của VKS. Như vậy, với thời gian 07 ngày như trên là quá ngắn, không đảm bảo thời gian để VKS nghiên cứu, có biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 97 của BLTTDS nhất là trong các trường hợp có thời gian trùng vào các ngày nghỉ lễ.

        1.3. Thẩm quyền của Tòa án

        Thẩm quyền của Tòa án trong trường hợp đương sự yêu cầu Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp lần đầu thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh hay cấp huyện? Theo công văn hướng dẫn của ngành Tòa án thì: Đối với trường hợp việc cấp GCNQSDĐ mà có cơ sở xác định được cấp không đúng quy định thì mới chuyển hồ sơ lên tòa cấp tỉnh giải quyết. Tuy nhiên, việc nhận định cấp GCNQSDĐ có đúng hay không phải thuộc vào quyết định của HĐXX trên cơ sở tranh tụng công khai, đánh giá chứng cứ toàn diện tại phiên tòa. Do vậy, việc tòa án có hướng dẫn như vậy có đúng hay không? Trường hợp Tòa án cấp huyện vẫn giải quyết thì có kháng nghị được không?

        1.4. Quyền và nghĩa vụ của đương sự:

        - Về quyền khởi kiện vụ án: Điều 186 BLTTDS quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

        Tuy nhiên, tại Điều 189 BLTTDS quy định về hình thức, nội dung đơn khởi kiện thì lại có quy định khác, cụ thể:

        “1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện phải làm đơn khởi kiện.

        2. Việc làm đơn khởi kiện của cá nhân được thực hiện như sau:

        a) Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ”.

        Với quy định nêu trên, người khác chỉ có viết (soạn thảo) hộ đơn khởi kiện, còn người đi kiện phải ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn. Như vậy, theo quan điểm trên nội dung của Điều 186 và Điều 189 có sự mâu thuẫn với nhau, bởi chế định ủy quyền thì cá nhân có thể ủy quyền cho người khác nhiều nội dung kể cả quyết định toàn quyền trong việc giải quyết nội dung vụ kiện, do đó không có lý do gì lại hạn chế người được ủy quyền không được ký vào đơn khởi kiện mà chỉ có người đi kiện ký vào đơn mới hợp lệ.

        -  Đối với quy định về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn, quyền đưa ra yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Khoản 3 Điều 200 BLTTDS quy định: “Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”;

        Tại khoản 2 Điều 201 BLTTDS quy định: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải”.

        Theo các quy định trên thì bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Như vậy, trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập sau thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì Tòa án sẽ không xem xét trong cùng vụ án. Còn đối với trường hợp nguyên đơn có yêu cầu khởi kiện bổ sung nhưng vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu sau thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thì trường hợp này Tòa án có nhận đơn và cho dự nộp tạm ứng án phí không? Căn cứ pháp lý nào để nhận hoặc không nhận đơn và cho hay không cho nộp tạm ứng án phí, vì tại BLTTDS 2015 chưa có quy định rõ.

        1.5. Việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng:

        - Theo quy định tại Khoản 1, Khoản 3 điều 171 BLTTDS thì giấy mời và quyết định kháng nghị của VKS là văn bản tố tụng phải được cấp, tống đạt cho đương sự. Tuy nhiên, tại Điều 172 BLTTDS về việc "người thực hiện việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng" lại không quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc cấp, tống đạt văn bản tố tụng của VKS...nên trong trường hợp VKS kháng nghị hoặc VKS có giấy mời đương sự thì rất khó khăn trong việc tống đạt văn bản tố tụng vì sẽ có trường hợp không nhận được sự phối hợp tốt của UBND cấp xã, cơ quan chủ quản nơi đương sự cư trú, làm việc.

        1.6. Chứng cứ, chứng minh:

        - Về thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ, theo quy định tại khoản 4 Điều 96 BLTTDS 2015 thì: Thời hạn giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này.

        Như vậy, thì đương sự phải nộp tài liệu chứng cứ cho Tòa án tối đa là 02 tháng hoặc 04 tháng tùy theo từng loại án được quy định tại Điều 203 về thời hạn chuẩn bị xét xử. quy định giới hạn quyền cung cấp tài liệu chứng cứ của đương sự mà không giới hạn thời hạn thu thập chứng cứ của Tòa án, mà cụ thể là Thẩm phán trực tiếp thụ lý, xét xử vụ án đó. Do đó, có thể dẫn đến khả năng có sự tùy tiện trong việc cho đương sự giao nộp chứng cứ, tài liệu và thực tế có vụ án Thẩm phán giới hạn cho đương sự giao nộp chứng cứ với thời hạn trên, nhưng có vụ án khi mở phiên tòa sơ thẩm vẫn được giao nộp chứng cứ, mặc dù trước đó đã được yêu cầu giao nộp chứng cứ, tài liệu cụ thể.

        - Về yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu chứng cứ, tại Điều 106 BLTTDS 2015 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án và VKS trong vòng 15 ngày, nếu không cung cấp mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất mức độ có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật...”. 

        Thực tiễn có rất nhiều vụ phải tạm đình chỉ nhiều tháng, thậm chí nhiều năm vì lý do cơ quan lưu giữ tài liệu, chứng cứ không cung cấp cho Tòa án theo yêu hướng dẫn để khắc phục tình trạng này (nhất là đối với những vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất).

        - Về thời hạn yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện yêu cầu của Tòa án: đối với các trường hợp Tòa án ra quyết định Tạm đình chỉ theo quy định tại Điểm d, đ Khoản 1 Điều 214; Khoản 4 Điều 215 BLTTDS. Bộ luật tố tụng dân sự chưa quy định thời hạn cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện theo yêu cầu của Tòa án về ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ, cung cấp tài liệu chứng cứ… dẫn đến kéo dài thời hạn giải quyết án, làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

        2. Về thủ tục giải quyết các vụ, việc dân sự

        2.1. Về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm:

        - Đối với việc thụ lý vụ án: khoản 1 Điều 195 BLTTDS 2015 quy định: “Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì Thẩm phán phải thông báo ngay cho người khởi kiện biết để họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí”.

        Tuy nhiên, Điều luật không quy định thời hạn cụ thể là bao lâu. BLTTDS 2015 cũng không quy định VKS kiểm sát đối với việc thụ lý đơn của Tòa. Dẫn đến, Tòa án tùy nghi trong việc xét, thụ lý đơn; có trường hợp đã đủ điều kiện để thụ lý nhưng Tòa không thụ lý, VKS không có căn cứ để yêu cầu, gây ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của đương sự.

        - Về thời hạn chuẩn bị xét xử tại Điểm b Khoản 1 Điều 203 BLTTDS 2015 quy định: Thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 BLTTDS là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, đối với các vụ có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án có quyền gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02 tháng đối với trường hợp nêu trên. Quy định này là khó thực hiện. Bởi lẽ để giải quyết xong một vụ án Dân sự nhất là những vụ án có tình tiết phức tạp, liên quan đến nhiều đương sự, có đương sự ở nước ngoài, phải thu thập chứng cứ từ nhiều nguồn thì cần phải có thời gian, cá biệt có trường hợp đương sự cố tình vắng mặt, Tòa án phải nhiều lần thực hiện việc cấp, tống đạt, niêm yết…. Điều này dẫn đến tình trạng Toà lên lịch xử nhưng phải tạm ngừng, hoặc tuyên án kéo dài, gây khó khăn cho đương sự.

        - Đối với việc tạm ngừng phiên tòa, Điều 259 quy định: “1. Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có quyền quyết định tạm ngừng phiên tòa khi có một trong các căn cứ sau đây: c) Cần phải xác minh, thu thập bổ sung tài liệu, chứng cứ mà nếu không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án và không thể thực hiện được ngay tại phiên tòa”.

        Trường hợp vụ án không có VKS tham gia, nhưng tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải thu thập, xác minh chứng cứ nên tạm ngừng phiên tòa để điều tra xác minh, thu thập chứng cứ. Khi Tòa án tiến hành điều tra thu thập chứng cứ thì thuộc trường hợp VKS tham gia (khoản 2 Điều 21 BLTTDS 2015). Như vậy, trường hợp trên được xử lý như thế nào thì Luật tố tụng chưa có quy định cũng như chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện. 

        - Về việc giao bản án theo quy định tại khoản 2 Điều 269 BLTTDS năm 2015 quy định: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan tổ chức, cá nhân khởi kiện và VKS cùng cấp…”. Tuy nhiên, việc Tòa án vi phạm thời hạn gửi bản án, quyết định cho VKS cùng cấp khá phổ biến, đồng thời một số VKS cấp dưới gửi bản án, quyết định cho VKS cấp trên còn chậm nên ảnh hưởng đến việc phát hiện vi phạm và thực hiện quyền kháng nghị.

        - Về thẩm quyền ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, theo quy định tại Điều 284 BLTTDS năm 2015, việc đình chỉ xét xử phúc thẩm trước khi mở phiên tòa do Thẩm phán chủ tọa phiên tòa quyết định, tại phiên tòa do HĐXX quyết định. Điều 289 BLTTDS quy định rõ ràng hơn về thẩm quyền ra quyết định đình chỉ, theo đó: “Trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc VKS rút toàn bộ kháng nghị trước khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm; trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, VKS rút toàn bộ kháng nghị sau khi Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm”. Tuy nhiên, thời điểm trước khi mở phiên tòa (quy định tại Điều 284) lại bao gồm cả thời điểm từ khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử tới khi khai mạc phiên tòa. Vì vậy, trên thực tế sẽ xảy ra trường hợp đương sự rút kháng cáo, VKS rút kháng nghị vào thời điểm sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng trước khi phiên tòa khai mạc, gây ra việc nhầm lẫn về thẩm quyền ký quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.

        Bên cạnh đó, khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015 (Mục 1 Chương XVII quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm) quy định: “Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì HĐXX phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không …”. Như vậy, quy định của điều luật cho thấy, trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện “trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm”, thì thẩm quyền đều do HĐXX quyết định là chưa hợp lý, chưa phân định ranh giới về thẩm quyền của Thẩm phán được phân công giải quyết (trước khi mở phiên tòa) với HĐXX (tại phiên tòa).

        2.2. Về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn

        Theo quy định tại Điều 317 BLTTDS năm 2015 thì điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn có nhiều điều kiện trong đó có quy định “Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ”. Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể nào về cách hiểu thế nào là “vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ”, điều này làm cho việc áp dụng quy định này để xem xét vụ án nào đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn giải quyết gặp rất nhiều khó khăn, thiếu sự đồng nhất giữa các Tòa án. Mặt khác, vụ án phải có “tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ”. Hiểu thế nào là vụ án có tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ đến nay vẫn chủ yếu phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của Thẩm phán. Bên cạnh đó, với việc đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ, Thẩm phán giải quyết đưa đến một cách thức giải quyết khác về việc công nhận sự thoả thuận của các đương sự thay vì việc áp dụng thủ tục rút gọn.

        2.3. Về trình tự, thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật:

        - Về căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm quy định tại Điều 326 BLTTDS 2015. Trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật khi có một trong các căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 326 hoặc trường hợp quan điểm đường lối giải quyết vụ án giữa VKS và Tòa án không thống nhất thì VKS có báo cáo đề nghị kháng nghị GĐT hay không hay phải chờ có đơn của đương sự? Đơn đề nghị của đương sự có phải là yếu tố bắt buộc hay không?

        - Vấn đề giải quyết hậu quả của việc thi hành án đối với bản án quyết định của Tòa án cấp dưới đã bị cấp trên hủy:

        Tại khoản 3 Điều 266 BLTTDS quy định: “3. Khi xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định đã bị hủy một phần hoặc toàn bộ theo quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm thì Tòa án phải giải quyết vấn đề tài sản, nghĩa vụ đã được thi hành (nếu có) theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng bị hủy và ghi rõ trong bản án.”

        Trường hợp bản án bị hủy đã thi hành xong, cơ quan thi hành án đã tiến hành cưỡng chế, giao tài sản theo đúng phần tuyên án của bán án bị hủy. Đối với phần tài sản trên đất thì bị cưỡng chế, phá dỡ; phần tài sản là các đồ dùng cá nhân của người phải thi hành án (không nhận) phải gửi lưu kho tại chi cục thi hành án, đối với các chi phí liên quan đến thi hành án thì sẽ giải quyết như thế nào?

        Trường hợp đương sự yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đối với phần tài sản đã bị phá dỡ theo quyết định cưỡng chế thi hành án thì có giải quyết luôn trong cùng vụ án hay tách ra, nếu giải quyết luôn trong cùng vụ án thì vấn đề trách nhiệm bồi thường này được giải quyết như thế nào? Ai là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại (Tòa án của bản án bị hủy, Tòa án hủy bản án, cơ quan thi hành án hay là các đương sự)

        Tại khoản 3 Điều 135 Luật THADS có quy định: “Trường hợp có yêu cầu về bồi thường thiệt hại thì cơ quan ra bản án, quyết định bị hủy, sửa giải quyết theo quy định của pháp luật.

        2.4. Về thủ tục giải quyết việc dân sự:

        - Thực tế trong quá trình giải quyết việc dân sự, có trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đồng ý với nội dung yêu cầu trong việc dân sự, do đó việc dân sự không còn thỏa mãn điều kiện về việc dân sự không có tranh chấp nên theo quy định tại Điều 361 của BLTTDS năm 2015 Tòa án không thể giải quyết theo trình tự theo quy định của việc giải quyết việc dân sự. Tuy nhiên, theo quy định của phần quy định chung của Thủ tục giải quyết việc dân sự cũng như hiện tại chưa có văn bản dưới luật hướng dẫn về thủ tục đình chỉ việc xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự, chuyển việc dân sự thành vụ. Đồng thời, trong quy định tại chương Thủ tục giải quyết việc dân sự không có quy định cho phép Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự nếu trong quá trình giải quyết việc dân sự mà phát sinh tranh chấp hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đồng ý với nội dung yêu cầu trong việc dân sự. Do đó, khi gặp tình huống trên, chưa có sự thống nhất trong việc giải quyết vấn đề.

        2.5. Về thủ tục giải quyết vụ, việc dân sự có yếu tố nước ngoài:

        - Khoản 2 Điều 473 BLTTDS 2015 về yêu cầu cung cấp thông tin về nhân thân, xác định địa chỉ của đương sự ở nước ngoài: “trường hợp cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài trả lời cho Tòa án Việt Nam không xác định được địa chỉ của đương sự ở nước ngoài hoặc sau 6 tháng mà không có trả lời thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu”. Thực tiễn công dân Việt Nam đi lao động tự do, không có địa chỉ ở nước ngoài rất nhiều hoặc đương sự, gia đình giấu địa chỉ. Trên thực tế, việc ủy thác tư pháp để xác định địa chỉ của đương sự gặp rất nhiều khó khăn. Quy định như trên dẫn đến giải quyết ly hôn theo yêu cầu của đương sự rất khó thực hiện, làm ảnh hưởng đến quyền được ly hôn để tạo lập cuộc sống mới của đương sự.

        3. Về vai trò, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện Bộ luật Tố tụng dân sự

        Về quy định cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức: Theo quy định tại Điều 7, Điều 106 BLTTDS năm 2015 thì cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ, trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.

        Trường hợp cơ quan, tổ chức không thực hiện yêu cầu của Tòa án mà không có lý do chính đáng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong một số vụ án tranh chấp dân sự, các cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu chứng cứ không kịp thời hoặc không có công văn phúc đáp, nhất là các cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai, gây khó khăn cho công tác thu thập chứng cứ, ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ giải quyết vụ án.

        Trong khi đó, trên thực tế, Tòa án không kiên quyết áp dụng khoản 3 Điều 106 của BLTTDS năm 2015 để kiến nghị xử lý đối với hành vi vi phạm trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức mà lại ra Quyết định tạm định chỉ giải quyết vụ án với lý do chờ ý kiến trả lời của cơ quan, tổ chức đang lưu giữ tài liệu, chứng cứ. Do đó, có một số vụ án tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án kéo dài mà không ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án vì cơ quan, tổ chức chưa cung cấp tài liệu, chứng cứ.

        4. Về tính thống nhất, đồng bộ giữa các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự với các luật khác

        Về cơ bản, bộ luật tố tụng dân sự và các luật khác có nội dung các quy định thống nhất, đồng bộ với nhau. Bên cạnh đó, vẫn có một số mâu thuẫn, chưa tương thích với nhau:

        - Tại Giải đáp 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 TAND Tối cao hướng dẫn giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ có giải đáp như sau: “Khoản 3, Điều 208, BLTTDS năm 2015 quy định: “Đối với vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án”. Quy định này thể hiện tính chất đặc thù của vụ án hôn nhân và gia đình, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ, chồng, con. Do vậy, đối với vụ án hôn nhân và gia đình có liên quan đến người chưa thành niên, việc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân phát sinh tranh chấp là bắt buộc. Như vậy, theo TAND Tối cao hướng dẫn thì Toà án phải bắt buộc thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân phát sinh tranh chấp đối với vụ án hôn nhân và gia đình có liên quan đến người chưa thành niên. Tuy nhiên, trong Điều 208 BLTTDS luật chỉ quy định “Khi xét thấy cần thiết” là có sự mâu thuẫn giữa điều luật và hướng dẫn điều luật.

        - Về biệp pháp khẩn cấp tạm thời: Hiện nay, theo quy định tại Điều 114 BLTTDS 2015 có tới 16 biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thể áp dụng (chưa kể đến các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác mà luật có quy định), tuy nhiên đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 130 Luật THADS thì có một số biện pháp khẩn cấp tạm thời chưa được Luật THADS quy định, hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục thi hành, dẫn đến cơ quan THADS gặp lúng túng trên thực tế nếu phải thi hành các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời dạng này, ví dụ như: biện pháp cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ; biện pháp cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình; tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu; bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.

        - Đối với quyết định giám đốc thẩm tuyên sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (theo khoản 5 Điều 343 và Điều 347 BLTTDS) thì chưa được quy định cụ thể trong Luật THADS, điều này có thể khiến cho các cơ quan thi hành án dân sự gặp lúng túng trong việc áp dụng căn cứ pháp luật khi gặp trường hợp này.

        - Về thời hạn Tòa án trả lời kiến nghị của cơ quan THADS theo Điều 170 Luật THADS: Cụ thể, điểm b khoản 2 Điều 170 quy định Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án quân sự TW trả lời kiến nghị của cơ quan THADS theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là: “…trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị”. Tuy nhiên, tại Điều 487 Bộ luật TTDS 2015 quy định về thời hạn Tòa án giải quyết yêu cầu, kiến nghị của cơ quan THADS đối với bản án, quyết định của Tòa án thì: “Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự kiến nghị về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì Tòa án có thẩm quyền phải trả lời trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày nhận được kiến nghị; trường hợp vụ việc phức tạp thì thời hạn trả lời không quá 04 tháng, kể từ ngày nhận được văn bản kiến nghị”. Cần lưu ý, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 48 của Luật THADS: “Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án trong trường hợp sau đây: …đ) Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 170 và khoản 2 Điều 179 của Luật này”. Do vậy, việc chưa thống nhất, đồng bộ trong quy định về thời hạn Tòa án trả lời kiến nghị của cơ quan THADS về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm có thể làm phát sinh khó khăn, vướng mắc cho cơ quan THADS trong việc lựa chọn thời điểm để tiếp tục thi hành án.

        II. Đề xuất kiến nghị, giải pháp khắc phục khó khăn, vướng mắc

        Thực tiễn 8 năm thi hành Bộ luật tố tụng dân sự vừa qua cho thấy đã nảy sinh những khó khăn, vướng mắc và bất cập trong thực tiễn áp dụng. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhằm khắc phục những hạn chế, tháo gỡ các vướng mắc, bổ sung các quy định mới để giải quyết những vẫn đề phát sinh từ thực tiễn là cần thiết, nhằm tạo nên hành lang pháp lý tố tụng dân sự thông thoáng, phục vụ tốt công tác giải quyết, xét xử các loại án, bảo vệ quyền lợi người dân, bảo vệ công lý, đáp ứng yêu cầu chung của xã hội, của đất nước. Do vậy, Cấp có thẩm quyền cần rà soát, tổng hợp các hạn chế, vướng mắc và những bất cập từ thực tiễn để sớm tổ chức sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự một cách toàn diện, đầy đủ. Theo đó, tác giả xin đưa ra một số đề xuất như sau:

        Thứ nhất, kiến nghị sửa đổi Bộ luật Tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt theo hướng giao thẩm quyền cho Tòa án nhân dân cấp Tỉnh giải quyết, xét xử các vụ việc này (phù hợp với Luật tố tụng hành chính). Đồng thời, quy định thời hạn chuẩn bị xét xử vụ việc dân sự theo hướng phân loại thời hạn theo từng loại vụ, việc (dân sự, hôn nhân và gia đình).

        Thứ hai, bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, tổ chức có nghĩa vụ cung cấp thông tin chứng cứ mà không cung cấp đúng thời hạn quy định hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin, tài liệu chứng cứ làm cho kết quả xét xử không đúng pháp luật, gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức khác theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

        Thứ ba, bổ sung các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phần giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng, phải được bổ sung theo hướng quy định rõ cơ sở, nội hàm, phạm vi, căn cứ xác định án lệ, tập quán làm cơ sở giải quyết tranh chấp; nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật, phạm vi những quy định pháp luật được phép sử dụng làm pháp luật tương tự khi giải quyết tranh chấp; quy định cụ thể hơn về cơ sở, điều kiện để xác định lẽ công bằng được dùng làm căn cứ khi giải quyết tranh chấp.

        Thứ tư, bổ sung các quy định cụ thể, phù hợp liên quan đến thu thập, lưu trữ, sử dụng nguồn chứng cứ, chứng cứ là dữ liệu điện tử; quy định cụ thể hơn về thụ lý, xử lý đơn khởi kiện qua thư điện tử; bổ sung quy định về xét xử trực tuyến. Ngoài ra, cần tổng kết thực tiễn, nghiên cứu giao cho các đơn vị chuyên ngành ngoài Nhà nước thực hiện thủ tục xem xét, thẩm định tại chỗ theo quyết định của Tòa án, đảm bảo sao cho giải quyết được hai mục đích, một là giảm tải phần việc, thời gian thu thập chứng cứ của Tòa án, hai là đảm bảo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ phải sát, phải đúng thực tế, đáp ứng được đường lối giải quyết, xét xử vụ án.

        Thứ năm, cần quy định cụ thể về việc Tòa án phải gửi các tài liệu, chứng cứ kèm theo Thông báo thụ lý; Thông báo trả lại đơn khởi kiện; các Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; các quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo cho VKS cùng cấp để kiểm sát các thông báo, quyết định của Tòa án theo đúng quy định.

        + Bổ sung, trong thời hạn VKS nghiên cứu hồ sơ, nếu phát hiện trong hồ sơ còn thiếu một số tài liệu, chứng cứ chưa đủ làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện thì VKS có thể yêu cầu Toà án ra Quyết định gia hạn thời hạn xét xử để Toà án bổ sung các tài liệu, chứng cứ. Nếu Tòa án không thực hiện việc bổ sung, thu thập chứng cứ thì phải có văn bản trả lời.

        Thứ sáu, cần sửa đổi, bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 289 BLTTDS 2015 theo hướng: “Trước khi mở phiên tòa, người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo hoặc VKS rút toàn bộ kháng nghị thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo, VKS rút toàn bộ kháng nghị thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm”.

        Thứ bảy, Cần sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015 theo hướng: “Trước khi mở phiên tòa, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không; tại phiên tòa, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì HĐXX phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tùy trường hợp mà giải quyết như sau:…”. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định trên giúp phân định rõ thẩm quyền của Thẩm phán được phân công giải quyết với thẩm quyền của HĐXX được thống nhất và phù hợp với các quy định tại các Điều 219, Điều 235 và khoản 3 Điều 284 BLTTDS 2015.

         Thứ tám, bổ sung tại khoản 1 Điều 130 Luật THADS một số biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau: “Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ thi hành án dân sự”; “Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình”; “Tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu”.

Nguyễn Thị Hà Phương – Phòng 9

HÌNH ẢNH

ĐĂNG NHẬP

Website liên kết

Thống kê truy cập

Đang truy cập Đang truy cập : 36

Tổng lượt truy cập Tổng lượt truy cập : 1182818