Tài liệu giới thiệu những điểm mới Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự

Huỳnh Phương Linh

            I. QUAN ĐIỂM ĐẶT RA VÀ MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU KHI XÂY DỰNG LUẬT TỔ CHỨC CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ

Ngày 20/8/2004, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 2004, được sửa đổi, bổ sung một số điều vào các năm 2006, 2009.

Sau khi Pháp lệnh được ban hành và triển khai thực hiện, các Cơ quan điều tra chuyên trách và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã được tổ chức theo hướng tập trung, thống nhất, chuyên sâu. Các chế định của Pháp lệnh đã đáp ứng được yêu cầu công tác điều tra hình sự. Kết quả đã thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên qua thực tiễn 10 năm triển khai tổ chức thực hiện Pháp lệnh cho thấy đã phát sinh nhiều vấn đề vướng mắc, hạn chế, bất cập. Nhiều chế định trong Pháp lệnh còn quy định chung chung, sự phân công, phân cấp chưa rõ ràng, rành mạch. Nội dung của Pháp lệnh chưa thể chế hóa đầy đủ các quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp, chưa đảm bảo kiểm soát quyền lực trong hoạt động điều tra. Vì vậy, cần thiết phải xây dựng, ban hành Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự nhằm tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra hình sự trong tình hình mới.

Ngày 26/11/2015, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, thay thế cho Pháp lệnh. Nội dung của Luật đã đáp ứng được các mục đích, yêu cầu cơ bản sau:

- Thể chế hóa chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước về cải cách tư pháp, về tổ chức của cơ quan điều tra hình sự

- Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân trong hoạt động điều tra hình sự; bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với quy định của các đạo luật mới được Quốc hội thông qua như Luật tổ chức Viện KSND, Bộ luật Hình sự, Bộ luật TTHS…

- Luật đã kế thừa các quy định còn phù hợp đang phát huy tác dụng tốt của pháp lệnh, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế của pháp luật về điều tra hình sự; đáp ứng yêu cầu của công tác điều tra hình sự trong tình hình hiện nay và những năm tiếp theo.

II. TỔNG QUAN LUẬT TỔ CHỨC CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ VÀ NHỮNG NỘI DUNG BỔ SUNG, SỬA ĐỔI LỚN

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH KIỂM SÁT.

Về bố cục của Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự (10 chương - 73 điều):

- Chương I. Những quy định chung: Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng; nguyên tắc tổ chức điều tra hình sự; hệ thống các cơ quan điều tra hình sự; nhiệm vụ của cơ quan điều tra hình sự, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân trong hoạt động điều tra; giám sát của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động điều tra hình sự; các hành vi bị nghiêm cấm (gồm 14 điều; từ Điều 1 đến Điều 14);

Chương II. Quy định về Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra của Công an nhân dân, (gồm 02 mục - 07 điều; từ Điều 15 đến Điều 21);

Chương III. Quy định Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân, (gồm 02 mục - 07 điều; từ Điều 22 đến Điều 28);

Chương IV. Quy định về Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, (gồm 03 điều; từ Điều 29 đến Điều 31);

Chương V. Quy định về quyền hạn của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, (gồm 08 điều; từ Điều 32 đến Điều 39);

Chương VI. Quy định quan hệ phân công và phối hợp trong hoạt động điều tra hình sự, (gồm 05 điều; từ Điều 40 đến Điều 44);

Chương VII. Chế định về Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên và Cán bộ điều tra, (gồm 15 điều; từ Điều 45 đến Điều 59);

Chương VIII. Các quy định bảo đảm điều kiện cho hoạt động điều tra hình sự, (gồm 04 điều; từ Điều 60 đến Điều 63);

Chương IX. Quy định về trách nhiệm của Chính phủ, các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong công tác điều tra hình sự, (gồm 07 điều; từ Điều 64 đến Điều 70);

Chương X. Điều khoản thi hành, gồm 03 điều, Quy định về Hiệu lực thi hành (Điều 71); Quy định chuyển tiếp (Điều 72) Quy định chi tiết (Điều 73).

So với Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự hiện hành, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự có những nội dung mới cơ bản sau đây:

1. Về nguyên tắc tổ chức điều tra hình sự (Điều 3)

Kế thừa quy định của Pháp lệnh, Điều 3 của Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự đã quy định rõ ràng và đầy đủ hơn các nguyên tắc tổ chức điều tra hình sự; theo đó, tổ chức điều tra hình sự phải bảo đảm 04 nguyên tắc sau:

Thứ nhất, Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật;

Thứ hai, Bảo đảm sự chỉ đạo, chỉ huy tập trung thống nhất, hiệu lực, hiệu quả; phân công, phân cấp rành mạch, chuyên sâu và được kiểm soát chặt chẽ;

Thứ ba, Cơ quan điều tra cấp dưới chịu sự hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của Cơ quan điều tra cấp trên; cá nhân chịu trách nhiệm trước cấp trên và trước pháp luật về hành vi, quyết định của mình;

Thứ tư, Chỉ cơ quan, người có thẩm quyền quy định trong Luật này mới được tiến hành hoạt động điều tra hình sự.

Đây là những tư tưởng chỉ đạo, có tính xuyên suốt mà các Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tuân thủ trong quá trình tổ chức điều tra hình sự.

2. Về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra

Để khẳng định vai trò, vị trí và trách nhiệm của Viện kiểm sát trong điều tra hình sự (phù hợp với Luật tổ chức Viện KSND, Bộ luật TTHS sửa đổi), Điều 11 quy định: Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra; Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát theo quy định của Bộ luật TTHS; xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát theo quy định pháp luật.

Như vậy, các quy định trong Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự đều có liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát các cấp khi THQCT, kiểm sát hoạt động điều tra các vụ án hình sự.

3. Về những hành vi bị nghiêm cấm

Luật tổ chức Cơ quan điều tra hình sự đã bổ sung 01 điều luật mới (Điều 14) quy định về các hành vi bị nghiêm cấm, trong đó có các quy định:

- Làm sai lệch hồ sơ vụ án; làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm; can thiệp trái pháp luật vào việc điều tra vụ án hình sự.

- Bức cung, dùng nhục hình; xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

- Cản trở quyền được bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can; quyền khiếu nại, tố cáo của người khác.

- Cản trở người bào chữa, người thực hiện trợ giúp pháp lý thực hiện việc bào chữa, trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật.

4. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra chuyên trách (Điều 8).

- Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố.

- Tiếp nhận hồ sơ vụ án do cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chuyển giao.

- Tiến hành điều tra các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do luật định để phát hiện, xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố.

- Tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa.

Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 10).

Khi thực hiện nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý của mình mà Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiếp nhận được tố giác, tin báo về tội phạm hoặc phát hiện hành vi phạm tội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh và điều tra theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật này.

5. Về tổ chức bộ máy và thẩm quyền của Cơ quan điều tra chuyên trách

Đối với Cơ quan điều tra của Công an nhân dân

Về tổ chức bộ máy đã có sự thay đổi cho phù hợp với thực tiễn hoạt động điều tra và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm (Điều 18):

- Đối với Cơ quan CSĐT của Công an nhân dân, Luật quy định hợp nhất Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng và Cục CSĐT tội phạm về trật tự quản lý kinh tế và chức vụ thành Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ tại Cơ quan CSĐT Bộ Công an; thành lập mới Cục CSĐT tội phạm về buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, xâm phạm sở hữu trí tuệ - Bộ Công an (gọi tắt là Cục CSĐT tội phạm về buôn lậu); Phòng CSĐT tội phạm về buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, xâm phạm sở hữu trí tuệ (gọi tắt là Phòng CSĐT tội phạm về buôn lậu) tại Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh.

- Đối với Cơ quan ANĐT Bộ công an, Luật kế thừa nguyên quy định của Pháp lệnh, có sửa đổi các quy định cho tương xứng với Bộ luật tố tụng hình sự.

Về thẩm quyền điều tra: Cơ bản giữ nguyên như quy định của pháp luật hiện hành, có sửa chữa để phù hợp với Bộ luật TTHS sửa đổi. Để giải quyết những vướng mắc, bất cập trên thực tiễn, Luật quy định theo hướng tăng thẩm quyền điều tra cho cấp cơ sở, tạo điều kiện cho cấp trung ương và cấp tỉnh thực hiện tốt việc hướng dẫn, chỉ đạo công tác điều tra. Luật đã bổ sung, sửa đổi như sau:

- Đối với Cơ quan CSĐT Bộ công an, Luật bổ sung thẩm quyền điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan CSĐT do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại (Điều 19).

- Đối với Cơ quan ANĐT Bộ Công an, Luật bổ sung thẩm quyền điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan ANĐT do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại (Điều 16); bổ sung thẩm quyền cho Cơ quan ANĐT Công an cấp tỉnh điều tra các vụ án hình sự về tội phạm khác liên quan đến an ninh quốc gia hoặc để đảm bảo khách quan theo sự phân công của Bộ trưởng Bộ Công an (Điều 17).

Đối với Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân

Về tổ chức, bộ máy: Được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định còn phù hợp của Pháp lệnh năm 2004 (Điều 22, Điều 25).

Về thẩm quyền điều tra: Cơ bản giữ nguyên như quy định của Pháp lệnh. Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm trong quân đội có yếu tố nước ngoài và tạo điều kiện Cơ quan điều tra cấp Bộ thực hiện tốt việc hướng dẫn, chỉ đạo công tác điều tra, Luật đã bổ sung, sửa đổi như sau:

- Cơ quan An ninh điều tra trong Quân đội được bổ sung thẩm quyền điều tra các tội khủng bố, tội tài trợ khủng bố (các Điều 23, 24).

- Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội được bổ sung thẩm quyền điều tra các vụ án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra hình sự do Hội đồng Thẩm phán Tòa án quân sự hủy để điều tra lại (các Điều 26, 27, 28)

Đối với Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Luật đã quy định bổ sung một số nội dung mới để phù hợp với Điều 20 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, đó là:

Về tổ chức bộ máy: Luật quy định Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao gồm có các Phòng điều tra và bộ máy giúp việc; Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương gồm có Ban điều tra và bộ phận giúp việc (Điều 29).

Về thẩm quyền điều tra: Được mở rộng thẩm quyền điều tra cả về loại tội phạm, cả một số tội danh mới trong BLHS, mở rộng cả về diện đối tượng phạm tội đó là:

- Về loại tội phạm: Được mở rộng thẩm quyền điều tra tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp.

- Về chủ thể phạm tội: Được mở rộng thẩm quyền điều tra các chủ thể phạm tội gồm: Người bào chữa, người giám định, người dịch thuật, quản giáo, cán bộ điều tra; được mở rộng thẩm quyền điều tra đối với các chủ thể phạm tội thuộc các đơn vị Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (cấp bộ), Phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm công nghệ cao (cấp tỉnh) và các cơ quan Kiểm ngư và lực lượng Công an các xã, phường, Đồn, thị trấn.

- Về loại tội danh: Được mở rộng thẩm quyền điều tra một số tội phạm quy định tại Chương 14 BLHS như: Tội Làm sai lệch hồ sơ vụ việc (Điều 375) hoặc Tội Không ra lệnh, quyết định gia hạn tạm giữ, tạm giam hoặc thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giữ, tạm giam khi hết thời hạn dẫn đến người bị tạm giữ, tạm giam bị giam, giữ quá hạn (Điều 377)

6. Về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Kế thừa những quy định của Pháp lệnh và để giải quyết những vướng mắc, bất cập nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn công tác điều tra hình sự, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự đã bổ sung, sửa đổi cho phù hợp cụ thể như sau:

Về tổ chức của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự quy định có tổng số 07 cơ quan, 40 đầu mối được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trong đó:

- Giữ nguyên quy định 6 cơ quan gồm: Bộ đội biên phòng; Hải quan; Kiểm lâm; Cảnh sát biển; Cơ quan thuộc lực lượng An ninh và lực lượng Cảnh sát trong CAND; bổ sung thêm cơ quan Kiểm ngư gồm Cục Kiểm ngư, Chi cục Kiểm ngư Vùng được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 9).

- Thực hiện thu gọn đầu mối, Luật không quy định Cục Cảnh sát quản lý hành chính Bộ Công an và Phòng Cảnh sát quản lý hành chính Công an tỉnh là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

- Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu tranh chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Luật bổ sung 2 đầu mối (Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao - Bộ Công an , Phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao - Công an cấp tỉnh) là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Việc quy định như vậy để tạo cơ chế đảm bảo các tố giác, tin báo về tội phạm được tiếp nhận và xử l‎‎ý nhanh chóng kịp thời thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân.

Về thẩm quyền và thời hạn điều tra của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra

Luật tăng thời hạn điều tra cho các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng thì quyết định khởi tố vụ án hình sự và tiến hành điều tra thì trong thời hạn 30 ngày, (Pháp lệnh quy định chỉ có 20 ngày) kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án phải kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật (từ Điều 32 đến Điều 39);

Về thẩm quyền của lực lượng Công an xã, phường, đồn, thị trấn

Luật không quy định Công an xã, phường, đồn, thị trấn là cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Tuy nhiên qua thực tiễn cho thấy lực lượng này có vai trò rất quan trọng trong công tác tiếp nhận, giải quyết tố giác tin báo về tội phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho các bước tiếp theo trong điều tra các vụ án hình sự. Vì vậy, Luật đã bổ sung quy định giao cho lực lượng Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an được tiếp nhận, kiểm tra thông tin ban đầu về tố giác, tin báo tội phạm (Điều 44)

7. Về quan hệ phân công và phối hợp trong hoạt động điều tra

- Luật đã xác định rõ mối quan hệ giữa hoạt động điều tra theo tố tụng và hoạt động trinh sát (Điều 42); Luật đã phân định rõ thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng của Thủ trưởng Cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra hình sự. (Điều 43)

- Đối với vụ việc có dấu hiệu phạm tội mà chưa xác định rõ thẩm quyền điều tra thì CQĐT nào phát hiện trước phải áp dụng ngay các hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS và luật này; khi đã xác định được thẩm quyền điều tra thì chuyển vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. (khoản 4 Điều 40)

8. Về trách nhiệm quản lý nhà nước trong công tác điều tra hình sự

Luật bổ sung quy định Chính phủ thống nhất quản lý về công tác điều tra hình sự, giao cho Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các Bộ, Ngành liên quan giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý về công tác điều tra hình sự.

Riêng đối với công tác quản lý nhà nước như thanh tra, kiểm tra, khen thưởng, xử lý vi phạm trong hoạt động điều tra hình sự, đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác điều tra hình sự, quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức chức danh Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra… thì của Bộ, Ngành nào do Bộ, Ngành đó thực hiện theo thẩm quyền.

 

9. Về chủ thể tiến hành hoạt động điều tra

Về chế định Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra:

Luật đã quy định rõ ngoài thẩm quyền và trách nhiệm trong tố tụng tư pháp, Thủ trưởng và Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra còn có thẩm quyền và trách nhiệm hành chính tư pháp như: Chỉ đạo, điều hành, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác và tổng kết công tác điều tra hình sự; Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ điều tra của Cơ quan điều tra cấp dưới; Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tr (Điều 52)

Về chế định Điều tra viên:

- Về nhiệm vụ quyền hạn  Luật quy định ngoài thẩm quyền và trách nhiệm trong tố tụng tư pháp, Điều tra viên còn thẩm quyền và trách nhiệm hành chính tư pháp như: Không được đưa hồ sơ, tài liệu ra khỏi cơ quan nếu không vì nhiệm vụ được giao; không được tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án, vụ việc mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định... (Điều 53, Điều 54)

- Về chức danh Điều tra viên, Luật quy định Điều tra viên có 3 ngạch (Sơ cấp, Trung cấp, Cao cấp). Điểm mới của Luật là: Quy định thi tuyển ngạch đối với Điều tra viên. Nhiệm kỳ bổ nhiệm lần đầu của Điều tra viên là 05 năm, bổ nhiệm lại hoặc nâng ngạch là 10 năm. (từ Điều 45 đến Điều 51, 56, 58)

Về chế định Cán bộ điều tra:

Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự bổ sung chức danh Cán bộ điều tra là người tiến hành tố tụng.

- Đối với Cán bộ điều tra của các Cơ quan điều tra chuyên trách, Luật quy định là người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về lĩnh vực điều tra hình sự, giúp Điều tra viên thực hiện một số hoạt động điều tra hình sự (Cán bộ điều tra thuộc các Cơ quan điều tra trong QĐND và CAND do Thủ trưởng CQĐT bổ nhiệm; Cán bộ điều tra thuộc CQĐT của Viện KSND tối cao do Viện trưởng bổ nhiệm) .

- Đối với Cán bộ điều tra thuộc cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều ra là người được Thủ trưởng cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phân công giúp Thủ trưởng cơ quan tiến hành xác minh, điều tra theo từng vụ việc, vụ án được phát hiện (Điều 59).

III. MỘT SỐ NỘI DUNG CẦN TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT TỔ CHỨC CƠ QUAN ĐIỀU TRA HÌNH SỰ

Điều 71 quy định từ ngày 01/7/2016 Luật tổ chức CQĐT hình sự có hiệu lực thi hành. Vì vậy, để việc triển khai thi hành Luật được kịp thời, Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao đề nghị Lãnh đạo Viện KSND tối cao, Viện kiểm sát các cấp quan tâm một số nội dung sau:

Thứ nhất. Đề nghị lãnh đạo Viện KSND tối cao quyết định phân công cụ thể các đơn vị thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp:

- Đối với các cơ quan CSĐT tội phạm về tham nhũng, kinh tế và chức vụ; các cơ quan CSĐT tội phạm về buôn lậu là những cơ quan mới được thành lập ở Bộ Công an và Công an cấp tỉnh.

- Đối với các cơ quan phòng chống tội phạm sử dụng công nghệ cao trong lực lượng Công an nhân dân; các cơ quan Kiểm ngư là những cơ quan mới được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Thứ hai: Theo quy định Luật thì CQĐT của Viện KSND tối cao được mở rộng thẩm quyền điều tra cả về loại tội phạm, cả loại tội danh mới và cả về diện đối tượng phạm tội… Như vậy, dự báo số lượng tố giác, tin báo và kiến nghị khởi tố, cũng như số vụ án hình sự xâm phạm hoạt động tư pháp, tham nhũng chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp phải thụ lý, giải quyết sẽ gia tăng cả về số lượng và tỉnh chất phức tạp. Vì vậy, để tạo điều kiện cho Cơ quan điều tra của ngành hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao cần thực hiện một số nội dung cụ thể sau:

- Đề nghị Lãnh đạo Viện KSND tối cao xem xét và quyết định xây dựng Đề án Tăng cường năng lực cho Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao. Tạo điều kiện trang bị cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và bổ sung biên chế nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ tăng thêm của Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao.

- Mặc dù dự báo số lượng công việc tăng thêm, nhưng tổ chức, bộ máy của Cơ quan điều tra của Viện KSND tối cao chỉ có đại diện 3 miền, không có lực lượng chân rết ở địa phương, cơ sở, nếu chỉ có CQĐT đơn phương tổ chức thực hiện thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nắm thông tin loại tội phạm này. Vì vậy, đề nghị các đơn vị Viện KSND và Viện kiểm sát quân sự các cấp tăng cường phối hợp, hỗ trợ Cơ quan điều tra, triển khai thực hiện tốt chỉ thị của Viện trưởng Viện KSND tối cao về công tác phối hợp giải quyết tố giác, tin báo tội phạm xâm phạm HĐTP, tội phạm tham nhũng, chức vụ xảy ra trong HĐTP giữa Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao với Viện KSND các cấp.

Thứ ba. Về triển khai quy định chuyển tiếp giữa Pháp lệnh và Luật.

             Đối với việc triển khai chuyển giao thẩm quyền giải quyết vụ án:

Điều 72  quy định: Đối với những vụ án đang được các Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền quy định trong Pháp lệnh nhưng đến ngày Luật có hiệu lực mà chưa kết thúc điều tra thì tiếp tục điều tra cho đến khi kết thúc điều tra vụ án.

Như vậy, đối với các tố giác, tin báo tội phạm theo quy định tại Điều 30, Điều 31 của Luật này tính đến ngày 1/7/2016 chưa ra quyết định khởi tố vụ án thì phải chuyển đến Cơ quan điều tra của Viện KSND tối cao để giải quyết theo thẩm quyền. Vì vậy, đề nghị Viện kiểm sát các cấp phối hợp với Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao tiến hành rà soát, tổng hợp các tố giác, tin báo loại tội phạm nêu trên nhưng đến khi Luật có hiệu lực vẫn chưa ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành làm thủ tục chuyển giao cho Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao để tiếp tục thụ lý và giải quyết theo thẩm quyền.

Đối với quy định về chuyển tiếp chức danh Điều tra viên.

Theo tinh thần Điều 71 quy định: Kể từ ngày Luật có hiệu lực, các Điều tra viên đã được bổ nhiệm theo quy định của Pháp lệnh vẫn tiếp tục giữ chức danh đó cho đến hết nhiệm kỳ. Như vậy, khi Luật có hiệu lực, Điều tra viên không phải làm thủ tục bổ nhiệm, vẫn tiếp tục giữ chức danh đó cho đến hết nhiệm kỳ.

Tuy nhiên do nhiệm vụ tăng thêm, công việc gia tăng nên cần bổ sung Điều tra viên cao cấp. Hiện CQĐT đã rà soát giới thiệu nhân sự thi tuyển Điều tra viên cao cấp và Viện KSND tối cao đã thành lập hội đồng thi tuyển. Vì vậy, đề nghị lãnh đạo VKSND tối cao duyệt, sớm tổ chức cho thi tuyển để bổ sung nguồn Điều tra viên cao cấp cho Cơ quan điều tra Viện KSND tối cao.

Thứ tư. Về việc xây dựng cơ chế đảm bảo hoạt động điều tra hình sự:

Luật tổ chức CQĐT hình sự được ban hành đã kế thừa các quy định còn phù hợp đang phát huy tác dụng của Pháp lệnh, khắc phục những hạn chế, vưỡng mắc bất cập trên thực tiễn, tạo cơ sở pháp lý toàn diện, đồng bộ và nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra hình sự trong tình hình mới. Tuy nhiên sau khi Luật có hiệu lực thì những văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh và các quy chế phối hợp có liên quan đến tổ chức Cơ quan điều tra hình sự không còn phù hợp nữa. Vì vậy, Viện KSND các cấp cần rà soát, sửa đổi các quy chế phối hợp giữa Viện kiểm sát với các CQĐT chuyên trách, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra để khi triển khai việc chuyển tiếp giữa Pháp lệnh và Luật tổ chức CQĐT hình sự được đảm bảo tính thống nhất, tạo cơ chế để Viện kiểm sát thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ được giao.

trích nguồn tài liệu do Viện KSND Tối cao giới thiệu

Bài viết trước Viện KSND huyện Thanh Trì tổ chức Hội nghị cán bộ công chức 2015 và gặp mặt tri ân cán bộ hưu trí dịp dịp đầu xuân
Bài viết tiếp theo VKS quận Đống Đa tổ chức Hội nghị cán bộ công chức năm 2016
In
3146 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
TIN MỚI NHẤT
Tin đọc nhiều