Một số nội dung cơ bản của Quy chế công tác Thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân
Quy chế công tác thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân có vai trò quan trọng quy định mọi mặt hoạt động của Thanh tra, trong đó có công tác thanh tra và công tác giải quyết khiếu nại tố cáo thuộc trách nhiệm của Thanh tra. Việc ban hành quy chế công tác thanh tra góp phần quan trọng trong việc hướng dẫn quy trình thanh tra, quy trình giải quyết khiếu nại tố cáo thuộc trách nhiệm của Thanh tra cũng như quan hệ phối hợp trong công tác thanh tra đảm bảo mọi hoạt động của Thanh tra được thực hiện đúng quy định.
Ngày 22/02/2016, Viện trưởng Viện KSND tối cao đã ban hành Quyết định số 59/QĐ-VKSTC-T1 ban hành Quy chế công tác thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân.
Quy chế công tác thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân (Ban hành kèm theo Quyết định số 59/QĐ-VKSTC-T1 ngày 22 tháng 02 năm 2016) gồm 6 chương, 64 điều, trong đó:
- Chương I - Những quy định chung, gồm 06 điều, quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, nguyên tắc hoạt động của Thanh tra, các hành vi bị nghiêm cấm, đối tượng thanh tra và nội dung công tác thanh tra.
- Chương II - Hoạt động thanh tra, gồm 09 điều, quy định về hoạt động thanh tra, quy trình thanh tra, thanh tra lại, giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động thanh tra và trách nhiệm tổ chức thực hiện kết luận, quyết định xử lý về thanh tra.
- Chương III - Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của Thanh tra, gồm 20 điều, quy định về giải quyết khiếu nại, giải quyết tố cáo.
- Chương IV – Chế độ thông tin, báo cáo về công tác thanh tra, gồm 03 điều, quy định về trách nhiệm thông tin, báo cáo về công tác thanh tra, các loại văn bản, báo cáo của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh về công tác thanh tra và hình thức báo cáo.
- Chương V – Quan hệ phối hợp trong công tác thanh tra gồm 03, điều quy định về quan hệ công tác giữa Thanh tra với lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân; quan hệ công tác giữa Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao với Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; quan hệ công tác giữa Thanh tra với các cơ quan, đơn vị khác trong Ngành.
- Chương VI – Điều khoản thi hành gồm 02 điều, quy định về hiệu lực thi hành và trách nhiệm thi hành.
Phạm vi bài viết này, tập trung khái quát một số nội dung quan trọng của quy chế quy định đối với công tác thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân nói chung, công tác thanh tra cấp tỉnh nói riêng để người xem hiểu rõ hơn về hoạt động thanh tra, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Thanh tra, quan hệ phối hợp và chế độ thông tin báo cáo trong hoạt động của Thanh tra cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (bài viết không đề cập tới các nội dung liên quan tới nhiệm vụ, quyền hạn và hoạt động của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp cao).
* Chương I Những quy định chung:
Về phạm vi điều chỉnh, quy chế nêu rõ: “Quy chế này quy định về hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Thanh tra, quan hệ phối hợp và chế độ thông tin, báo cáo trong hoạt động của Thanh tra ngành Kiểm sát nhân dân (sau đây gọi tắt là Thanh tra)”.
Đối tượng áp dụng của quy chế, “áp dụng đối với Viện kiểm sát nhân dân các cấp; cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong ngành Kiểm sát nhân dân”.
Nguyên tắc hoạt động của Thanh tra tại khoản 2 Điều 3 của Quy chế quy định: “Không trùng lặp về phạm vi, đối tượng, nội dung và thời gian giữa các đơn vị thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra trong Ngành, trừ trường hợp thanh tra lại”.
Về đối tượng thanh tra, tại khoản 3 Điều 5 của Quy chế nêu rõ: “Đối tượng của Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh bao gồm:
a/ Các đơn vị cấp phòng và tương đương thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh; Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện; các đơn vị cấp phòng thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện;
b/ Công chức giữ chức vụ quản lý cấp phòng và tương đương; lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện và các công chức khác, người lao động thuộc quyền quản lý của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh.
Nội dung công tác thanh tra, Điều 6 Quy chế có nêu:
“1. Thanh tra về hoạt động nghiệp vụ trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (gọi chung là thanh tra nghiệp vụ).
2. Thanh tra về hoạt động công vụ, nội vụ, việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí và việc thực hiện Quy chế dân chủ của Viện kiểm sát nhân dân theo sự phân công của Viện trưởng cấp mình (gọi chung là thanh tra hành chính).
3. Giải quyết khiếu nại, tố cáo về vi phạm pháp luật, kỷ luật nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức của công chức, viên chức và người lao động trong ngành (gọi chung là giải quyết khiếu nại, tố cáo).
…”
* Chương II quy định về hoạt động thanh tra:
- Hình thức thanh tra: gồm thanh tra theo kế hoạch, thanh tra đột xuất và thanh tra thường xuyên.
Đối với thanh tra theo kế hoạch, căn cứ vào kế hoạch thanh tra hằng năm đã được phê duyệt, Chánh Thanh tra có thẩm quyền ra quyết định thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra, được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Quy chế này.
Đối với thanh tra đột xuất, Chánh Thanh tra ra quyết định thanh tra đột xuất và thành lập Đoàn thanh tra để thực hiện nhiệm vụ thanh tra sau khi báo cáo và được sự đồng ý của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình, được quy định tại điểm a khoản 2 Điều 8 Quy chế này.
Nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra, Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra và đối tượng thanh tra được quy định cụ thể tại các Điều 9, 11,12,14 Quy chế này.
- Thời hạn thanh tra đối với cuộc thanh tra do Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh tiến hành không quá 10 ngày, trường hợp phức tạp thì có thể kéo dài nhưng không quá 20 ngày, tính từ ngày công bố quyết định thanh tra đến ngày kết thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra, quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 15 Quy chế này.
* Chương III quy định về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của Thanh tra :
Trách nhiệm của Thanh tra trong giải quyết khiếu nại - tố cáo, tại khoản 1 Điều 37, khoản 1 Điều 46 Quy chế quy định, Thanh tra giúp Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình giải quyết khiếu nại, tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật, kỷ luật nghiệp vụ, kỷ luật nội vụ, phẩm chất đạo đức của công chức, viên chức, người lao động trong ngành thuộc đối tượng thanh tra được quy định tại Điều 5 của Quy chế này.
Các thủ tục tiếp nhận, phân loại, thụ lý giải quyết khiếu nại - tố cáo, ban hành quyết định xác minh nội dung khiếu nại – tố cáo, xác minh nội dung khiếu nại – tố cáo, báo cáo kết quả xác minh nội dung khiếu nại – tố cáo, quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận giải quyết tố cáo; thủ tục gửi, công bố quyết định giải quyết khiếu nại - kết luận nội dung tố cáo được quy định cụ thể từ Điều 38 đến Điều 55 Quy chế này.
* Chương IV quy định về chế độ thông tin, báo cáo về công tác thanh tra:
Khoản 2 Điều 60 quy định: “Chánh Thanh tra các cấp có trách nhiệm báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình về chương trình công tác, kế hoạch thanh tra hàng năm và kế hoạch thanh tra đột xuất, thanh tra thường xuyên; các báo cáo sơ kết, tổng kết, báo cáo chuyên đề về công tác thanh tra; các báo cáo về kết quả, kết luận thanh tra và các việc khác do Viện trưởng Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp mình giao”.
Khoản 3 Điều 61 quy định: “Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh báo cáo công tác thanh tra theo quy định tại Điều 58 và Điều 59 của Quy chế này với Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đối với những việc Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao chuyển đến Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh để giải quyết theo thẩm quyền thì phải thông báo kết quả giải quyết cho Thanh tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao”.
Trên đây là một số nội dung cơ bản của Quy chế 59/QĐ-VKSTC-T1 về công tác thanh tra trong ngành Kiểm sát nhân dân. Quy chế này có hiệu lực kể từ ngày 22/02/2016, thay thế phần nội dung về công tác thanh tra tại Quy chế công tác thanh tra, kiểm tra trong ngành Kiểm sát nhân dân ban hành kèm theo Quyết định số 808/QĐ-VKSTC-TTr ngày 11/11/2012 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trần Thị Minh Phương- Thanh tra VKS thành phố