BÀN VỀ QUY ĐỊNH MỚI CỦA BLHS NĂM 2015 VỀ CHẾ ĐỊNH LOẠI TRỪ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

Huỳnh Phương Linh

                  Bộ luật hình sự là công cụ sắc bén để đấu tranh phòng ngừa tội phạm, góp phần tích cực trong việc bảo vệ độc lập chủ quyền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức; duy trì trật tự an toàn xã hội; thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Đến nay Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành 03 (ba) Bộ luật hình sự là Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 2009 và Bộ luật hình sự năm 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016. Bộ luật hình sự năm 2015 đã kế thừa phát huy những mặt tích cực của Bộ luật hình sự năm 2009; loại bỏ những mặt hạn chế không còn phù hợp với tình hình hiện nay đồng thời bổ sung các quy định mới tiến bộ nhằm đáp ứng yêu cầu và đòi hỏi tất yếu của đời sống xã hội, góp phần không nhỏ vào việc phát triển, giữ gìn an ninh trật tự. Trong phạm vi của bài viết này, chỉ đề cập đến một số quy định mới về các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự của Bộ luật hình sự năm 2015.

                Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự (Chương IV): Được quy định thành 07 (bảy) điều, từ Điều 20 đến Điều 26 gồm: sự kiện bất ngờ; tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự; phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên. Bộ luật hình sự năm 2009 không quy định các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự thành một chương mà quy định nằm rải rác trong chương tội phạm. Bộ luật hình sự năm 2015 (viết tắt: BLHS năm 2015) đã phân loại, thống kê và quy định 07 trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự (không phải là tội phạm) thành một chương cụ thể; đây là một điểm mới, tiến bộ, thuận lợi trong việc nghiên cứu và áp dụng pháp luật.

                Những quy định mới về loại trừ trách nhiệm hình sự của BLHS năm 2015, ngoài việc kế thừa quy định 04 (bốn) trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự của Bộ luật hình sự năm 2009 là: sự kiện bất ngờ; tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự; phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết mà còn quy định mới 05 (năm) trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự được đặt nằm trong 03 (ba) điều luật từ Điều 24 đến Điều 26 là: gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24); rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25); thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26).

             1/ Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (khoản 1,Điều 24  của BLHS năm 2015) quy định: Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm. Theo quy định của điều luật thì khi bắt người thực hiện hành vi mà gây thiệt hại nhưng không phải là tội phạm thì cần đủ hai điều kiện là:

- Điều kiện thứ nhất về chủ thể, theo quy định tại Điều 24 thì có 02 (hai) chủ thể được thực hiện việc bắt người là: Chủ thể thứ nhất là chủ thể đặc biệt được người có thẩm quyền phân công thực hiện việc bắt giữ người phạm tội thuộc các trường hợp bắt khẩn cấp; bắt bị can, bị cáo để tạm giam phục vụ cho công tác tiến hành tố tụng hình sự; bắt phạm nhân để thi hành án. Chủ thể thứ hai là bất kỳ người nào cũng có quyền bắt giữ khi phát hiện thấy người có hành vi phạm tội quả tang, người đang bị truy nã.

- Điều kiện thứ hai là không còn cách nào khác buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiết hại cho người bị bắt giữ nghĩa là người thực hiện việc bắt giữ người phạm tội đã sử dụng mọi biện pháp để ngăn ngừa như tuyên truyền, thuyết phục hoặc đưa ra các biện pháp cảnh báo nhưng người thực hiện hành vi phạm tội vẫn không dừng lại, không chấp hành yêu cầu của người tiến hành bắt giữ mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội gây thiệt hại lợi ích chính đáng cho người khác nếu không được ngăn ngừa. Sự cần thiết được quy định trong điều luật là một khái niệm tương đối rộng, không có định lượng cụ thể mà phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức, đánh giá và quan điểm của người thực thi pháp luật trong một hoàn cảnh cụ thể, với thời gian rất ngắn và phải đưa ra quyết định ngay để hạn chế gây thiệt hại. Khi xác định trường hợp cần thiết phải sử dụng vũ lực thì cần phải đánh giá đến sự tương quan về lực lượng, sử dụng hung khí, trạng thái tâm lý của người bị bắt và khả năng mức độ gây thiệt hại và không còn biện pháp nào khác ngoài biện pháp phải sử dụng vũ lực để ngăn chặn.

             2/ Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25 của BLHS năm 2015) quy định: Hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.

Điều luật không quy định khoản mà cấu tạo thành hai đoạn. Đoạn một quy định 03 (ba) trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự là: gây thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; gây thiệt hại trong khi thử nghiệm tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; gây thiệt hại trong khi áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ.

Theo quy định của điều luật thì hành vi gây thiệt hại khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm, phải đủ hai điều kiện:

- Điều kiện thứ nhất về chủ thể phải là người có trình độ chuyên môn nhất định theo quy định của Nhà nước và được cơ quan có thẩm quyền phân công nghiên cứu, phân công thử nghiệm, phân công áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ.

- Điều kiện thứ hai là khi nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ nhưng đã chấp hành đúng quy trình do pháp luật quy định; khi nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ đã chuẩn bị, áp dụng các biện pháp phòng ngừa về thiệt hại cho con người, thiệt hại về chất, lợi ích khác mà gây thiệt hại. Việc gây thiệt hại là ngoài ý muốn và ngoài khả năng kiểm soát của người được phân công nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng khoa học kỹ thuật thì không phải là tội phạm.

Phạm vi điều chỉnh của điều luật này là được áp dụng đối với những người có trình độ chuyên môn nhất định và cơ quan có thẩm quyền phân công nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ khi đã chuẩn bị, áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng ngừa mà gây thiệt hại thì không phải là tội phạm.

               3/ Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26 của BLHS năm 2015) quy định: Người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực thi nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Cấu tạo của điều luật tương tự như Điều 25 là có hai đoạn. Đoạn một quy định về 02 (hai) trường hợp không phải chịu trách nhiệm hình sự là: trường hợp người thực hiện hành vi gây thiệt hại khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy trong lực lượng vũ trang nhân dân để thi hành nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và trường hợp người thực hiện hành vi gây thiệt hại khi thi hành mệnh lệnh của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thi hành nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Như vậy, điều luật quy định người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm hình sự phải đủ các điều kiện là: Người thi hành mệnh lệnh phải là người trong lượng vũ tranh nhân dân (Công an nhân dân hoặc Quân đội nhân dân Việt Nam) được giao mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên nhưng người giao mệnh lệnh phải trong lực lượng vũ trang nhân dân; nhiệm vụ thi hành phải là phục vụ cho mục đích quốc phòng, anh ninh mà gây thiệt hại nhưng không phải chịu trách nhiệm hình sự khi người thi hành mệnh lệnh đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra lệnh về khả năng gây thiệt hại nhưng người ra lệnh vẫn yêu cầu thi hành mệnh lệnh.

Như vậy điều luật này điều chỉnh về loại trừ trách nhiệm hình hình sự được áp dụng đối với những người trong lực lượng vũ trang (Công an nhân dân, Quân đội nhân dân) thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy, của cấp trên trong lực lượng vũ trang và nhiệm vụ thi hành phải là phục vụ cho mục đích quốc phòng, an ninh mà gây thiệt hại nhưng trước khi thi hành mệnh lệnh đã báo cáo người ra lệnh nhưng không được chấp nhận thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Với các quy định mới về các trường hợp được loại trừ trách nhiệm hình sự, bài viết đã cố gắng làm rõ hơn các quy định mới nhưng không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế. Rất mong được sự bổ sung đóng góp của các bạn.

                                                       Đỗ Minh Tuấn - Phó Chánh Thanh tra Viện KSND thành phố Hà Nội

 

Bài viết trước Vinh dự tự hào được đứng trong hàng ngũ của Đảng đúng dịp kỷ niệm 86 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Bài viết tiếp theo Cụm thi đua số XI thành phố Hà Nội ký kết giao ước thi đua năm 2016
In
2974 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
TIN MỚI NHẤT
Tin đọc nhiều