Tuổi chịu trách nhiệm hình sự trong BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

Nguyễn Thành Lâm

       Tuổi chịu trách nhiệm hình sự là một vấn đề không thể thiếu trong pháp luật hình sự của mỗi quốc gia, nhưng không phải nước nào cũng giống nhau, điều đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm của mỗi nước, vào sự phát triển về sinh học của con người ở mỗi quốc gia khác nhau. Ví dụ: ở Anh từ 8 tuổi, ở Mỹ từ 7 tuổi, ở Thụy Điển từ 15 tuổi, ở Nga từ 14 tuổi, ở Pháp từ 13 tuổi, ở các nước đạo hồi như Ai Cập, Li Băng, I Rắc từ 7 tuổi...

       Ở nước ta, chính sách pháp luật hình sự của Đảng và Nhà nước Việt Nam là luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, trong đó trẻ em, người dưới 18 tuổi được ví như măng non, là nguồn hạnh phúc của gia đình, tương lai của dân tộc, chủ nhân kế tục sự nghiệp phát triển đất nước. Điều này đã được quy định trong các Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp và được cụ thể hóa trong Luật trẻ em năm 2016.

       Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Phù hợp với sự thiếu hụt và non nớt về kiến thức, kinh nghiệm sống của người dưới 18 tuổi cũng như gắn liền với trách nhiệm của toàn xã hội trong việc giáo dục người dưới 18 tuổi, nguyên tắc này hướng đến trọng tâm của việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội là giáo dục, giúp đỡ để họ trở thành người có ích cho xã hội. Đây là nguyên tắc chung, bao trùm và chi phối nội dung các nguyên tắc còn lại trong xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội, thể hiện tính nhân đạo của hệ thống pháp luật hình sự nước ta và nó hoàn toàn phù hợp với tinh thần của các công ước quốc tế về tư pháp người dưới 18 tuổi.

       Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Nguyên tắc này bổ sung cho nguyên tắc thứ nhất nhằm hạn chế tình trạng trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ cần áp dụng biện pháp xử lý khác nhưng lại bị truy cứu trách nhiệm hình sự và đặc biệt là bị áp dụng hình phạt. Quy định này đòi hỏi sự cân nhắc kỹ của người áp dụng pháp luật khi quyết định hình thức và biện pháp xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm hạn chế tác động tiêu cực của chế tài hình sự, đặc biệt là hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Những trường hợp mà tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm cũng như nhân thân người phạm tội thể hiện cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự.

       Việc quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở nước ta tùy theo mỗi giai đoạn, các nhà làm luật quy định chủ yếu căn cứ vào những tiêu chí sau:

       Một là, dựa vào những đặc điểm tâm - sinh lý, thể chất và khả năng nhận thức của lứa tuổi chưa thành niên.

       Hai là, căn cứ vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và chính sách, đường lối xử lý tội phạm do người chưa thành niên thực hiện.

       Ba là, căn cứ trên cơ sở tổng kết thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở nước ta nói riêng. Trong đó, căn cứ vào mức độ nguy hiểm của tội phạm và tính phổ biến của những loại tội phạm mà người chưa thành niên thực hiện trong những thời điểm cụ thể.

       Bốn là, tham khảo các quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của các nước trên thế giới.

       Trên cơ sở xem xét các tiêu chí trên, từ lần pháp điển hòa lần đầu tiên BLHS năm 1985 đã quy định người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự đối với những tội có khung hình phạt trên 5 năm tù nhưng phải với lỗi cố ý. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

       Vấn đề đặt ra về lý luận cần phải giải quyết, đó là vì sao người chưa đủ 14 tuổi lại không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra? Khoa học luật hình sự xác định tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn về sự phát triển tâm sinh lý của con người mà chủ yếu là sự phát triển về quá trình nhận thức của con người và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.

       Người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả nặng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự).

       Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm theo quy định của pháp luật chứ không chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. Theo luật hình sự nước ta thì người từ đủ 14 tuổi trở nên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nghiêm trọng do cố ý.

       Đến BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), đã thể hiện quan điểm phân hóa tội phạm hình sự ra thành 4 loại: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trên cơ sở đó quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 12 thì người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Tuy nhiên, tại phần tội phạm cụ thể trong BLHS năm 1999, có 2 tội quy định chủ thể phải là người đã thành niên nghĩa là phải đủ 18 tuổi chứ không phải đủ 16 tuổi như quy định, cụ thể như: Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115) và tội dâm ô đối với trẻ em (Điều 116). Đây là lỗi kỹ thuật trong quá trình lập pháp. Khoản 2 Điều 12 BLHS năm 1999 quy định người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Do đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng và tội rất nghiêm trọng do lỗi vô ý, mà chỉ chịu trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do lỗi cố ý và tội đặc biệt nghiêm trọng (cả lỗi cố ý và vô ý). Như vậy, trên cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 12 BLHS năm 1999 thì người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với 137 tội trong BLHS năm 1999. Tuy nhiên, một số tội mà người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi không thỏa mãn dấu hiệu về mặt chủ thể (chẳng hạn các loại tội chủ thể phải là người có chức vụ) nhưng vẫn có thể xử lý ở vai trò đồng phạm. Qua đó, cho thấy BLHS năm 1999 vẫn còn một số lỗi về kỹ thuật lập pháp.

       Để khắc phục những lỗi về kỹ thuật lập pháp trên và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, tạo cơ sở phân hóa trách nhiệm hình sự xử lý người chưa thành niên phạm tội, nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm người chưa thành niên; đồng thời bảo đảm minh bạch và thực hiện tốt nguyên tắc nhân đạo, BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015) quy định rõ các tội danh cụ thể thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự, đồng thời bổ sung một số tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng nhưng có tính chất, mức độ nguy hiểm, xảy ra phổ biến mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi cũng phải chịu trách nhiệm hình sự để xử lý nghiêm khắc.

       Vì vậy, tại khoản 01 Điều 12 BLHS năm 2015, tiếp tục quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm và bổ sung thêm “trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác” để khắc phục hạn chế của BLHS năm 1999 đối với trường hợp một số tội danh mà chủ thể phải là người đủ 18 tuổi như đã phân tích ở trên.

       Cụ thể trong phần tội phạm thì BLHS năm 2015 có 3 tội quy định chủ thể phải là người đủ 18 tuổi chứ không phải đủ 16 tuổi cụ thể là: Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145); tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146); tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147).

       Khoản 02 Điều 12 quy định liệt kê cụ thể những tội danh mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 phải chịu trách nhiệm hình sự chứ không quy định chung chung như BLHS năm 1999 và thu hẹp rất nhiều tội danh, nhằm đảm bảo tính minh bạch, nhân đạo trong xử lý đối với đối tượng này theo tinh thần của Hiếp pháp năm 2013 và Công ước của Liên Hiệp quốc về quyền trẻ em.

       Theo đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự 04 tội danh, kể cả ở khung cấu thành cơ bản lẫn ở khung cấu thành tăng nặng như: Tội giết người (Điều 123);  tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142); tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144); tội cướp tài sản (Điều 168).

       Và 24 tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng (nghĩa là tội đó có khung hình phạt cao nhất phải từ trên 07 năm tù trở lên) cụ thể theo các khoản của từng tội như sau:

       Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (khoản 3,4, 5 Điều 134); Tội hiếp dâm (khoản 2, 3, 4 Điều 141);Tội cưỡng dâm (khoản 2 và khoản 3 Điều 143); tội mua bán người (khoản 1, 2 và khoản 3 Điều 150); tội mua bán người dưới 16 tuổi (khoản 1, 2 và khoản 3 Điều 151); Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (khoản 2,3,4 Điều 169)tội cưỡng đoạt tài sản (khoản 2, 3 và khoản 4 Điều 170); tội cướp giật tài sản (khoản 2, 3 và khoản 4 Điều 171); tội trộm cắp tài sản (khoản 3 và khoản 4 Điều 173); tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (khoản 3 và khoản 4 Điều 178); tội sản xuất trái phép chất ma túy (khoản 2, 3 và khoản 4 Điều 248); tội tàng trữ trái phép chất ma túy (khoản 2, 3 và khoản 4 Điều 249); tội vận chuyển trái phép chất ma túy (khoản 2, 3 và khoản 4 Điều 250); tội mua bán trái phép chất ma túy (khoản 2, 3 và khoản 4 Điều 251); tội chiếm đoạt chất ma túy (khoản 2, 3 và khoản 4 Điều 252); tội tổ chức đua xe trái phép (khoản 3 và khoản 4 Điều 265); tội đua xe trái phép, khoản 3 và khoản 4 Điều 266); tội tán phát chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (khoản 3 Điều 286); tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử (khoản 3 Điều 287); tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác (khoản 3 Điều 289); tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (khoản 3 và khoản 4 Điều 290); tội khủng bố (khoản 1 và khoản 2 Điều 299); tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (khoản 1 và khoản 2 Điều 303); tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, khoản 2, 3 và khoản 4 Điều 304.

       Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 Điều 14, nếu người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi mà chuẩn bị phạm 02 tội sau đây thì phải chịu trách nhiệm hình sự: Tội giết người (Điều 123); tội cướp tài sản (Điều 168).

       Như vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 12, khoản 3 Điều 14 thì người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự trong 28 tội danh đã liệt kê ở trên.

Nguyễn Ngọc Dương - Phòng 8

Bài viết trước Góp ý Dự thảo Luật phòng chống tham nhũng sửa đổi, bổ sung lần thứ 7, dự kiến thông qua tại kỳ họp thứ 6, Quốc Hội khóa XIV
Bài viết tiếp theo Nhiệm vụ chống oan sai, bỏ lọt tội phạm trong ngành kiểm sát nhân dân năm 2018
In
511 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều