Thực tiễn xử lý đối với hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và một số vấn đề liên quan
Những năm trở lại đây, tình hình tội phạm ma túy vẫn diễn biến vô cùng phức tạp, đa dạng với nhiều thủ đoạn ngày càng tinh vi. Trước thực trạng đó, các cơ quan chức năng tiến hành tố tụng đẩy mạnh việc đấu tranh và xử lý để phòng chống các loại tội phạm về ma tuý, đặc biệt là tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” quy định tại Điều 255 của Bộ luật hình sự. Qua thực tiễn công tác tại địa phương, bài viết đi vào nghiên cứu, đánh giá về tính phù hợp, đúng đắn, đảm bảo giá trị pháp lý của các văn bản hướng dẫn để việc xử lý tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đảm bảo có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
I. Các văn bản hướng dẫn việc xử lý tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy bao gồm:
1. Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ tư pháp, tiểu mục 6.1 mục 6 phần II quy định: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là một trong các hành vi sau đây:a) Chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác;b) Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị, cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, tìm người sử dụng chất ma túy”. Tại điểm a tiểu mục 6.2 mục 6 phần II cũng nêu rõ: “Người nghiện ma túy có chất ma túy (không phân biệt nguồn gốc ma túy do đâu mà có) cho người nghiện ma túy khác chất ma túy để cùng sử dụng trái phép thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, mà tùy từng trường hợp có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc tội sử dụng trái phép chất ma túy”.
Theo quy định trên thì nhóm người nghiện ma túy tổ chức cho nhau sử dụng trái phép chất ma túy thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Trong quá trình thu thập, củng cố chứng cứ để xác định các dấu hiệu cấu thành tội phạm những vụ án “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, các cơ quan tố tụng phải xác định tình trạng nghiện ma túy của các đối tượng liên quan (có thể trong danh sách con nghiện do địa phương quản lý hoặc không trong danh sách này). Nếu kết quả xác minh nhóm đối tượng liên quan đều là người nghiện thì người cung cấp ma túy không phải chịu trách nhiệm về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, mà tùy từng trường hợp có thể bị xử lý về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” hoặc tội “Sử dụng trái phép chất ma túy”.
2. Công văn số 03/VKS ngày 03/01/2000 của Viện KSND tối cao, về việc hướng dẫn thống nhất đường lối xử lý một số trường hợp cụ thể thuộc các tội phạm về ma túy, có nội dung như sau: “Đối với tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thì cần phải xác định được bản chất của sự việc, đó là việc tổ chức sử dụng ma túy hay chỉ là những người nghiện ma túy tụ tập với nhau sử dụng trái phép chất ma túy; đối với những người nghiện ma túy có quan hệ quen biết tụ tập nhau để sử dụng ma túy…thì không phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
3. Tại công văn số 89/TANDTC-PC ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân tối cao tại mục 1 phần I hướng dẫn như sau: “…Còn tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được hiểu là thực hiện một trong các hành vi bố trí, sắp xếp, điều hành con người, phương tiện; cung cấp ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ… để thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma túy. Trong tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cũng có đồng phạm nhưng đồng phạm ở đây được hiểu là thực hiện theo sự chỉ huy, phân công điều hành (không có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, không bắt buộc phải có sự phân công, chỉ đạo, điều hành chặt chẽ trong các đồng phạm). Do đó, hành vi cung cấp ma túy cho người khác sử dụng là một trong các hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Người có hành vi này bị xử lý theo quy định tại Điều 255 của Bộ luật Hình sự”.
Như vậy, có thể khẳng định công văn 89 không có bất kỳ điểm nào mâu thuẫn với Thông tư 17 về nội dung này. Nó có sự kế thừa và làm rõ hơn về nội hàm khái niệm tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Một người có một trong các hành vi nêu trên nhằm đưa ma túy vào cơ thể người khác mà không bị xử lý về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là bỏ lọt tội phạm. Ngoài tội này, nếu các đối tượng có hành vi cấu thành tội độc lập nào khác sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Tại cuốn giải đáp vướng mắc về pháp luật và giải quyết các vụ án về tội phạm ma túy năm 2019 – 2020 của Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn như sau: “…bất kể người nào đủ năng lực trách nhiệm hình sự có hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đều là chủ thể của tội phạm, không loại trừ trường hợp đó là người nghiện ma túy…người nghiện ma túy có hành vi cung cấp chất ma túy cho người nghiện ma túy khác sử dụng tại địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” .
5. Công văn số 5442/VKSTC-V14 ngày 30/11/2020 của Viện KSND tối cao ban hành về việc giải đáp một số khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định của BLHS, BLTTHS năm 2015 và thi hành án hình sự lại hướng dẫn áp dụng pháp luật về “Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” tại tiểu mục 16.2 mục 16 phần I như sau:“… người nghiện ma tuý có hành vi cung cấp chất ma tuý cho người nghiện ma tuý khác sử dụng tại địa điểm thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.
6. Cùng về nội dung này ngày 02/8/2021, Toà án nhân dân tối cao ban hành Công văn số 02/TANDTC-PC về việc giải đáp một số vướng mắc trong xét xử cũng hướng dẫn nội dung trên tại mục 7 phần I như sau:
“A là người đi mua ma tuý về (B không biết A mua ma tuý). Sau đó A và B đến nhà C chơi. Khi đến nhà C, A mới bỏ ma tuý ra và bảo “”ai chơi thì chơi”. Lúc này cả 03 người cùng sử dụng ma tuý, sau đó D đến nhà C và thấy ma tuý trên bàn nên đã tự lấy sử dụng. A, B, C, D đều là người nghiện ma tuý. Vậy A có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý hay không?
… Trong trường hợp này, A là người cung cấp ma tuý cho B, C, D để họ thực hiện việc sử dụng trái phép chất ma tuý…. Do đó, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý theo quy định tại Điều 255 của Bộ luật hình sự”.
Như vậy, theo các văn bản giải đáp nêu trên của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì một người có hành vi cung cấp ma túy cho người khác sử dụng, kể cả trong trường hợp những người này đều là những người nghiện ma túy, thì đã phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Theo những hướng dẫn này thì không cần thỏa mãn dấu hiệu chỉ huy, phân công, điều hành hoặc là người đồng phạm thực hiện hành vi cung cấp ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, tìm người sử dụng chất ma túy theo sự chỉ huy, phân công, điều hành của người khác và không loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người nghiện ma túy.
Như vậy, cùng một nội dung liên quan đến việc xử lý tội phạm “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” đang có hướng dẫn và cách xác định hoàn toàn khác nhau về đối tượng được cung cấp ma tuý trong hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý. Những văn bản giải đáp nêu trên vận dụng tinh thần của Thông tư số 17 nhưng nội dung giải đáp lại mâu thuẫn và trái ngược hoàn toàn với Thông tư số 17, không đúng với bản chất và những dấu hiệu cấu thành đặc trưng của tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Điều này làm phát sinh xung đột pháp luật trong việc áp dụng pháp luật để xử lý tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, dẫn tới gây khó khăn trong quá trình đấu tranh phòng chống tội phạm ma tuý.
Nhóm tác giả cho rằng các văn bản đơn ngành của TAND tối cao và VKSND tối cao chỉ là các giải đáp vướng mắc mang tính chất nội bộ Ngành, không mang những thuộc tính chung của pháp luật là tính quy phạm phổ biến và tính bảo đảm thực hiện bằng Nhà nước; các văn bản hướng dẫn đơn ngành được xem xét vận dụng trong trường hợp phù hợp với hướng dẫn của các văn bản có giá trị pháp lý cao hơn hoặc trong trường hợp không có văn bản hướng dẫn có trị pháp lý cao hơn nhưng có giá trị giải quyết được khó khăn, vướng mắc của thực tiễn đang được đặt ra. Do vậy, các vấn đề liên quan đến việc xác định các yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” vẫn cần áp dụng tinh thần tại Thông tư liên tịch số 17/2007.
II. Qua thực tiễn công tác, nhóm tác giả đưa ra một tình huống để cùng trao đổi:
Ngày 10/5/2021, Công an huyện A kiểm tra hành chính nhà K phát hiện có 3 nam, 3 nữ gồm K, Đ, H, N, L, U; thu giữ trên đệm giường nơi Đ đứng có một túi màu trắng chứa tinh thể màu trắng, giám định là Ketamine, khối lượng 0,564g; thu giữ tại kệ tivi trong phòng 01 đĩa trắng trên có 1 thẻ nhựa thu ở nền nhà 01 túi nilon đã qua sử dụng, giám định đều dính Ketamine; khám xét nhà Đ thu giữ 1 tờ tiền loại 1.000 đồng, bên trong chứa bột màu trắng giám định là ma túy Ketamine, khối lượng 0,148 gam.
Quá trình điều tra xác định: 0h ngày 10/5/2021 K, Đ, H đang ở nhà K thì có 1 người bạn tên X (không rõ nhân thân lai lịch) liên lạc hẹn đến nhà K để rủ rê sử dụng ma túy. K rủ Đ đi mua ma túy, Đ đưa 1 triệu đồng, K góp 200.000 đồng rồi cả 2 cùng đi mua ma túy của một người không quen biết. Đ đứng ngoài chờ, K trực tiếp mua. Cả 2 về nhà K đã thấy đối tượng X và 3 người gồm U, N, L ở nhà H (là bạn K, Đ) cũng đang có mặt ở đó. K đổ gói ma túy vừa mua ra đĩa cho mọi người sử dụng. Một lúc sau X ra về chỉ còn K, Đ, H, U, N, L. Số ma túy không sử dụng hết K đưa hết cho Đ, Đ cất trong túi quần. Khi K đang dọn nhà thì Công an vào kiểm tra hành chính, Đ sợ bị phát hiện đã ném gói ma túy xuống đệm thì bị bắt giữ. Đ và K khai mục đích cả 2 đi mua ma túy về chỉ để sử dụng. U, N, L khai được X rủ đến nhà K tại đây mọi người được nghe nhạc và sử dụng ma túy… Đ có tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” năm 2018 chưa được xóa án tích. Đ khai số ma túy 0,148 gam Ketamine Công an thu giữ tại nhà Đ được K cho để sử dụng, chưa kịp sử dụng thì bị thu giữ. K thừa nhận và khai được 1 đối tượng không rõ nhân thân lai lịch cho để sử dụng, K biết Đ có nhu cầu sử dụng nên cho Đ. Các đối tượng xét nghiệm dương tính với ma túy và đều không trong danh sách con nghiện do địa phương quản lý.
Ba ngành nội chính huyện có quan điểm khác nhau về hướng giải quyết vụ án:
- Cơ quan CSĐT huyện Đ: Do số lượng ma túy ít (0,564 gam Ketamine) nên không có căn cứ xử lý K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đối với hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy “do K chỉ cung cấp ma túy cho các con nghiện khác sử dụng nên căn cứ điểm a mục 6.2 phần II của Thông tư 17 không đủ căn cứ xử lý đối với K và Đ về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
- VKSND huyện Đ: Đ, K góp tiền mua ma túy cho các đối tượng X, H, U, L sử dụng. Theo quy định điều 255 BLHS, các công văn hướng dẫn của VKSND tối cao, TAND tối cao thì Đ, K đồng phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Việc sử dụng ma túy của các đối tượng đã hoàn thành. Số ma túy còn lại Đ giấu trong người nên Đ còn phạm thêm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- TAND huyện Đ: Hành vi của K cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” vì ngoài việc cung cấp ma túy K còn có hành vi sử dụng nhà mình cho các con nghiện khác sử dụng ma túy. Hành vi của Đ không cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái pháp chất ma túy: do hành vi có mức độ…
TAND huyện Đ đã đưa vụ án ra xét xử theo trình tự sơ thẩm vụ án và tuyên bị cáo K, Đ tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 điều 255 BLHS, ngoài ra còn tuyên bị cáo Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 249 BLHS.
Theo quan điểm của nhóm tác giả thì K, Đ đồng phạm về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngoài ra, Đ còn có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
K đưa cho Đ để Đ có hành vi cất giấu số ma túy còn lại sau khi cả bọn đã sử dụng (0,564g ketamine) để sau này tiếp tục sử dụng.Trước đó, K còn cho Đ 0,148 gam Ketamine để sử dụng, như vậy, cả 2 bị cáo còn có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tuy nhiên khối lượng ma túy K và Đ tàng trữ là 0,712 gam Ketamin. Do số lượng ma túy Ketamine không đủ 01g theo quy định tại điểm g khoản 1 điều 249 BLHS nên không xử lý được đối với K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đ nhân thân có tiền án về tội cùng loại chưa được xóa án tích nên cần thiết xử lý đối với Đ theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 249 BLHS. Bởi lẽ, tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không quy định định lượng cung cấp cho các con nghiện sử dụng. Chỉ cần có một trong những hành vi như phân tích ở trên nhằm đưa ma túy vào cơ thể người khác (xét nghiệm dương tính) thì tội phạm đã hoàn thành. Điểm b mục 6.2 phần II của Thông tư 17 nêu rõ: Người nào thực hiện hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy mà còn thực hiện một trong nhiều hành vi phạm tội khác về ma túy, quy định tại các điều luật tương ứng của BLHS thì ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 197 BLHS tùy trường hợp còn có thể bị truy cứu TNHS về tội phạm khác đã thực hiện quy định tại điều Luật tương ứng của BLHS. Có như vậy mới phân hóa được tội phạm (số lượng ma túy nhiều hay ít).
- Trường hợp nếu Công an bắt Đ chưa kịp cất dấu số ma túy sử dụng còn thừa vào túi quần (rồi sau đó vứt ra gường đệm) mà số ma túy thừa vẫn để ở bàn rồi bị bắt giữ thì Đ vẫn bị xử lý về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về bản chất thì hành vi cất giữ ở bàn (trong nhà) hay trong túi quần (trong người) thì vẫn như nhau. Nếu chỉ có mục đích cất giấu sau này sử dụng tiếp, nếu chưa kịp sử dụng hết mà sau này chỉ để sử dụng tiếp, đủ lượng thì xử lý thêm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nếu để lại để bán thì xử lý thêm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”… Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy được Thông tư liên tịch số 17 nêu rõ tại mục 3.1 phần II là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn đưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất giấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hay theo người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này.
Như vậy, cũng cần phân hóa tội phạm để tránh việc xử lý hình sự một cách tràn lan. Trong vụ án này, K và Đ góp tiền đi mua ma túy để cung cấp cho các đối tượng còn lại sử dụng trái phép chất ma túy cùng trong vụ án này. Giả sử nếu cơ quan công an bắt quả tang đối tượng H đang giữ trong tay lượng ma túy do K, Đ cung cấp để chuẩn bị “xào ke” cho mình sử dụng thì H cũng có hành vi tàng trữ song cũng không nên xử lý H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nếu đủ lượng mà chỉ xử lý đối với K, Đ về hành vi này bởi H sẽ không có quyền định đoạt số ma túy này ngoài quyền sử dụng. Nếu trước đó, H có hành vi chuẩn bị tiền polymer, bật lửa để “xào ke” đưa cho các đối tượng U, N, L sử dụng mà một trong các đối tượng đó ví dụ U sử dụng sốc thuốc chết… thì cần xem xét xử lý đối với H đồng phạm với K và Đ về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
III. Kiến nghị, đề xuất
TAND tối cao đã ban hành Quyết định số 355/QĐ-TANDTC ngày 08/10/2021 về việc công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ thuộc lĩnh vực của TAND Tối cao. Từ ngày Bộ luật Hình sự 1999 hết hết hiệu lực đến nay đã khá lâu mới được TAND Tối cao công bố hết hiệu lực toàn bộ và đến nay vẫn chưa có văn bản mới thay thế hướng dẫn. Việc chậm ban hành văn bản hướng dẫn pháp luật hình sự, tố tụng hình sự nói chung, đối với tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nói riêng, đã gây khó khăn trong nhận thức và áp dụng pháp luật vào quá trình truy tố, xét xử, dẫn đến việc trả hồ sơ, thỉnh thị án kéo dài, không bảo đảm tính công khai minh bạch trong việc áp dụng pháp luật.
Trên thực tế, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn áp dụng “tinh thần” của các văn bản hướng dẫn Bộ luật Hình sự 1999, không trái với quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nhưng không viện dẫn điều, khoản của văn bản đó. Điều này cho thấy cơ chế tổng kết, hướng dẫn Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự còn nhiều thiếu sót, chưa kịp thời và chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn áp dụng. Việc áp dụng “tinh thần” của các văn bản hướng dẫn đã hết hiệu lực chỉ là giải pháp tình thế do chưa có hướng dẫn mới. Thiết nghĩ, giải pháp tình thế này không thể kéo dài quá lâu vì sẽ ảnh hưởng tới cơ sở pháp lý của các quyết định tố tụng. Do đó, các cơ quan liên ngành, mà đặc biệt là Tòa án nhân dân Tối cao cần tăng cường công tác tổng kết, hướng dẫn quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự một cách kịp thời nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn, nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong quá trình xét xử các vụ án hình sự nói chung, vụ án Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nói riêng.
Phạm Tú Anh, Nguyễn Thị Hà, Vũ Thị Thu Hà - Phòng 7