Một số vấn đề vướng mắc về chế định xóa án tích trong Bộ luật hình sự hiện nay
Trước hết, theo khoa học hình sự thì án tích là “hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải chịu sau khi bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật”1, do vậy, việc xem xét người phạm tội có còn án tích hay không có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định tội, định khung và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, sau khi thỏa mãn điều kiện theo quy định của pháp luật thì án tích sẽ được xóa, khi đó người đã xóa án tích được coi như chưa bị kết án. Trong luật hình sự Việt Nam, khái niệm xóa án tích được hiểu là “xóa bỏ việc mang án tích thể hiện ở sự công nhận coi như chưa bị kết án đối với người trước đó đã bị tòa án xét xử, kết tội”2. Chế định xóa án tích được Bộ luật hình sự quy định một chương riêng (Chương X) thể hiện tinh thần nhân đạo của Nhà nước ta đối với người bị kết án, nhằm khuyến khích họ tuân thủ pháp luật để thực sự trở thành người có ích cho xã hội.
Theo đó, người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách của án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quy định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới theo thời hạn mà Bộ luật hình sự ấn định (Điều 70 Bộ luật hình sự). Tuy nhiên, quá trình xem xét xóa án tích của các cơ quan tiến hành tố tụng đã phát sinh một số vướng mắc trong việc xác định thế nào là “đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quy định khác của bản án” nên ngày 03/4/2019, TAND tối cáo ban hành Hướng dẫn 64/TANDTC-PC về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hình chính giải đáp vướng mắc trên. Tại mục 7 Phần I của Hướng dẫn 64 đã quy định: “Điều 70 của Bộ luật Hình sự quy định về các điều kiện đương nhiên được xóa án tích, trong đó có điều kiện: người bị kết án nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách của án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án. Như vậy, Bộ luật Hình sự không quy định trường hợp loại trừ việc người bị kết án chưa chấp xong hành hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án với bất kỳ lý do gì. Hơn nữa, pháp luật thi hành án dân sự quy định nhiều phương thức thi hành để người phải thi hành án có quyền lựa chọn như: tự nguyện thi hành, thỏa thuận thi hành án hoặc nhờ thân nhân nộp thay. Do vậy, trường hợp người bị kết án (sau này là bị can, bị cáo trong một vụ án mới) không nhận được thông báo và quyết định thi hành án của Cơ quan thi hành án dân sự nên chưa thi hành hình phạt bổ sung, chưa nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và các quyết định khác của bản án là chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án. Trong trường hợp này, người bị kết án không đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự”. Điểm quan trọng tại Hướng dẫn trên là “Bộ luật Hình sự không quy định trường hợp loại trừ việc người bị kết án chưa chấp xong hành hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án với bất kỳ lý do gì”, do đó có thể hiểu mọi trường hợp không chấp hành đóng án phí, hình phạt bổ sung, thi hành các khoản bồi thường dân sự,… đều là chưa chấp hành xong bản án và chưa được xóa án tích, chính điều này lại dẫn đến khó khăn trong việc xác định xóa án tích trong các trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất, Tòa án không chuyển bản án dẫn đến cơ quan thi hành án dân sự không thể ra quyết định thi hành án chủ động (án phí). Trường hợp này rõ ràng người bị kết án sau khi chấp hành xong hình phạt chính dù có muốn thi hành án phí nhưng không thể vì cơ quan thi hành án dân sự không thụ lý vụ việc. Chính vi phạm không chuyển bản án của Tòa án lại làm cho người bị kết án gặp bất lợi trong việc xem xét họ đương nhiên được xóa án tích.
Theo quan điểm của tác giả, trong trường hợp này cần áp dụng nguyên tắc có lợi cho người bị kết án, đó là kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính, trong thời hạn quy định tại Điều 70 Bộ luật hình sự, họ không phạm tội mới thì đương nhiên họ được xóa án tích, đây cũng chính là quan điểm của Ban biên tập mục Hỏi đáp pháp luật của webside Viện kiểm sát nhân dân tối cao3 .
Trường hợp thứ hai, người bị kết án chấp hành xong hình phạt chính và án phí nhưng chưa chấp hành xong bồi thường thiệt hại do người được bồi thường không có đơn yêu cầu thi hành án và đến thời điểm xem xét xóa án tích thì thời hiệu yêu cầu thi hành án đã hết. Về vướng mắc này, Vụ 14 Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có giải đáp sau: căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và điểm a khoản 2 Điều 7a Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì thi hành khoản bồi thường theo bản án, quyết định của Tòa án là nghĩa vụ của người bị kết án; nếu người bị kết án không thi hành khoản bồi thường cho bị hại nêu trên (mặc dù đã thi hành xong phần hình phạt chính và đã đóng án phí) thì vẫn bị coi là chưa chấp hành xong bản án, quyết định của Tòa án và không đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và theo Hướng dẫn 64 của TAND tối cao4. Ngoài ra tại giải đáp này Vụ 14 cũng hướng dẫn trường hợp loại trừ giữa người bị kết án và người được thi hành án có thỏa thuận bằng văn bản về việc không phải thi hành khoản bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 5 Nghị định 62/2015 thì xem xét người bị kết án đương nhiên được xóa án tích.
Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả: tại mục 1.1 phần 1 Nghị quyết 01/2007 ngày 02/10/2007 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao quy định “Thời hiệu thi hành bản án quy định tại Điều 55 của BLHS là thời hiệu thi hành bản án hành sự về quyết định hình phạt. Đối với các quyết định về bồi thường thiệt hại, án phí và các quyết định khác về tài sản thì việc xác định thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự”, theo đó thời hiệu thi hành bản án trong trường hợp này chính là thời hiệu yêu cầu thi hành án theo Luật thi hành án, nên phải xác định thời hiệu thi hành bản án đã hết. Căn cứ khoản 3 Điều 70 Bộ luật hình sự “Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này” thì trong trường này người bị kết án nếu không phạm tội mới sẽ đương nhiên được xóa tích.
Trường hợp thứ ba, đối với các trường hợp từ 01/7/2009 đến 01/7/2015 - thời điểm Luật thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực, cơ quan thi hành án dân sự nhận được bản án của Tòa án, trong đó có khoản thi hành án theo yêu cầu và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nhưng qua xác minh thấy người phải thi hành án không đủ điều kiện thi hành án nên cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định trả lại đơn yêu cầu thi hành án. Trường hợp này theo Hướng dẫn 64 của TAND tối cao thì không đương nhiên được xóa án tích nhưng theo quan điểm của tác giả, Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định trả lại đơn yêu cầu là một trong ba trường hợp kết thúc thi hành án (cùng với các trường hợp thực hiện xong nghĩa vụ và đình chỉ thi hành án), do vậy, trong giai đoạn này mặc dù người chấp hành án không thi hành nghĩa vụ bồi thường của bản án nhưng đã được tính là kết thúc thi hành án nên không thể xem xét họ chưa chấp hành bản án để xác định án tích đối với họ. Trường hợp này, họ đương nhiên được xóa án tích theo Điều 70 của Bộ luật hình sự.
Bên cạnh những vướng mắc nêu trên, quá trình áp dụng pháp luật còn có nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định tái phạm nguy hiểm trong trường hợp đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý (điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự). Nhiều ý kiến cho rằng không cần đánh giá lại xóa án tích của các bản án mà bị can đã bị kết tội mà chỉ xem xét bản án gần nhất xác định bị can tái phạm, chưa được xóa án tích thì lần phạm tội tiếp theo bị can đương nhiên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo đúng tinh thần của điều luật. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, Bộ luật hình sự qua các thời kỳ nhiều lần được sửa đổi, bổ sung, trong đó có sửa đổi về chế định xóa án tích, quy định về đương nhiên được xóa án tích qua mỗi lần đều có sự thay đổi nên khi xác định bị can có tái phạm hay không bắt buộc những người tiến hành tố tụng đều phải xem xét lại từng lần bị kết án đã được xóa án tích hay chưa để xác định tái phạm, tái phạm nguy hiểm với bị can.
Nhìn chung, việc xem xét xóa án tích trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đều được các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét thận trọng, đảm bảo đúng căn cứ tuy nhiên để việc áp dụng chế định này được thống nhất, tác giả đề xuất liên ngành tố tụng Trung ương cần có hướng dẫn cụ thể, giải đáp những vướng mắc, khó khăn nêu trên.
Trên đây là một số vướng mắc về chế định Xóa án tích trong Bộ luật hình sự và quan điểm giải quyết của tác giả, rất mong được sự trao đổi, đóng góp của các đồng chí.
1. https://www.vksndtc.gov.vn/tin-tuc/cong-tac-kiem-sat/trao-doi-ve-quy-dinh-khong-bi-coi-la-co-an-tich-d10-t10074.html
2. Giáo trình Luật Hình sự, NXB CAND năm 2001, tr.236
3. https://vksndtc.gov.vn/hoidap/Pages/hoi-dap.aspx?ItemID=94
4. https://vksndtc.gov.vn/hoidap/Pages/hoi-dap.aspx?ItemID=1493
Nguyễn Tiến Hoàn, Bùi Quốc Trưởng, Nguyễn Tiến Long
CLB Kiểm sát viên trẻ Viện KSND huyện Phú Xuyên