MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN
Hoạt động thực hành quyền công tố là một trong hai chức năng quan trọng của VKSND được qui định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Ngành kiểm sát đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, đặc biệt là chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, góp phần bảo đảm việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử được đúng người đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Từ thực tiễn công tác, bài viết xin đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Cướp tài sản.
Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Cướp tài sản cần đáp ứng những yêu cầu sau:
- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Cướp tài sản phải quán triệt thực hiện đầy đủ các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, các quy định của pháp luật và quy chế của ngành kiểm sát nhân dân.
- Phải bảo đảm quyền dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, tôn trọng quyền con người, quyền công dân.
- Bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan, sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội.
- Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Cướp tài sản yêu cầu thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.
1. Nhóm giải pháp chung
1.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự và các văn bản pháp quy dưới luật có liên quan đến thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Cướp tài sản.
Hoàn thiện pháp luật hình sự
Thứ nhất, cần có các văn bản hướng dẫn giải thích rõ ràng các thuật ngữ miêu tả hành vi trong tội Cướp tài sản hoặc thống nhất hành vi thuộc mặt khách quan của tội này, đặc biệt trong việc phân biệt với hành vi thuộc mặt khách quan của tội khác trong cùng nhóm các tội xâm phạm sở hữu.
Hiện nay, hành vi “đe dọa dùng vũ lực” trong tội Cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự với hành vi “đe dọa dùng vũ lực” của tội Cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự chưa có hướng dẫn rõ ràng để phân biệt. Với cách quy định này có thể sẽ dẫn tới nhiều trường hợp nhầm lẫn, khó phân biệt trong việc định tội, giải quyết vụ án. Hoặc quy định về dấu hiệu “hành vi khác” tại Điều 168 về tội Cướp tài sản cũng chưa rõ ràng, dẫn đến thiếu thống nhất trong nhận thức và thực hiện pháp luật. Ngoài ra, cũng cần làm rõ dấu hiệu “làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự là bắt buộc đối với tất cả các hành vi cấu thành mặt khách quan của tội Cướp tài sản gồm “dùng vũ lực”, “đe dọa dùng vũ lực” và “hành vi khác”, hay là chỉ áp dụng đối với “hành vi khác”.
Ngoài ra, theo quan điểm truyền thống thì Cướp tài sản là tội có cấu thành hình thức, chỉ cần người phạm tội có hành vi “dùng vũ lực” hoặc đe dọa “dùng vũ lực” làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản là phạm tội cướp tài sản, không cần xét đến hành vi đó thực tế có xâm phạm sức khỏe người khác hoặc chiếm đoạt được tài sản hay không. Trên thực tế, có những trường hợp người phạm tội chỉ có hành vi vũ lực rất nhẹ, không mang mức độ, tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội hay cho người bị hại, nếu áp dụng tội Cướp tài sản thì có thể quá nặng. Vì vậy có thể xem xét sửa đổi quy định theo hướng chỉ những hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe người khác nhằm chiếm đoạt tài sản mới cấu thành tội Cướp tài sản.
Thứ hai, cần có văn bản hướng dẫn trường hợp trong một số vụ án các bị can thực hiện một chuỗi hành vi từ việc đe dọa, sử dụng vũ lực đến ép bị hại đi theo trái ý muốn của bị hại và giữ bị hại để đe dọa đòi nợ, quá trình bắt giữ có sử dụng vũ lực để chiếm đoạt tài sản thì cẩn xử lý các hành vi này về tội Cướp tài sản và cả tội Bắt, giữ người trái pháp luật nếu như thoả mãn cả hai cấu thành tội phạm của hai tội này.
Thứ ba, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể trường hợp “tiếp nhận về mặt ý chí” trong chế định đồng phạm nói chung, tiếp nhận mục đích tiếp nhận “nhằm chiếm đoạt tài sản” trong tội cướp tài sản nói riêng. Văn bản này cần quy định cụ thể thời điểm có thể được coi là các đối tượng tiếp nhận mục đích, ý chí của nhau như: trước và trong khi thực hiện hành vi chung; hướng dẫn cụ thể về các biểu hiện của tiếp nhận mục đích, ý chí như thái độ, hành vi của các đối tượng… Đây là cơ sở pháp lý để xác định thống nhất về đồng phạm trong các vụ án cướp tài sản.
Thứ tư, cần thống nhất cách hiểu thuật ngữ “sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự là khi các bị can đã “dùng” vũ khí, phương tiện nguy hiểm để khống chế, uy hiếp làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, tức là đã thỏa mãn yếu tố “sử dụng” thuộc hành vi khách quan của tội Cướp tài sản. Không nên hiểu “sử dụng vũ khí, phương tiện nguy hiểm” ở đây căn cứ vào nghĩa đen của cụm từ “sử dụng” tức là hành vi khai thác tính năng, tác dụng của vũ khí, phương tiện đó.
Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
Thứ nhất, cần chỉnh sửa một số quy định trong BLTTHS năm 2015 về thủ tục tố tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự để bảo đảm tính khách quan trong hoạt động tranh tụng và phát huy được vai trò chủ động của Kiểm sát viên trong việc làm rõ các quan điểm buộc tội tại phiên tòa. Chẳng hạn, sửa đổi Điều 307 BLTTHS năm 2015 về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa theo hướng không ấn định Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là người điều hành việc xét hỏi và là người hỏi trước, hỏi chính rồi sau đó mới đến hoạt động xét hỏi của Hội thẩm, Kiểm sát viên hoặc người tham gia tố tụng khác. Việc bỏ quy định này sẽ nâng cao vai trò làm rõ chứng cứ buộc tội tại phiên tòa của Kiểm sát viên. Đồng thời, BLTTHS cũng cần bổ sung quy định bắt buộc Kiểm sát viên phải có trách nhiệm xét hỏi bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Quy định này sẽ giảm thiểu trường hợp Kiểm sát viên chỉ lặp lại những gì đã được Thẩm phán chủ tọa phiên tòa xét hỏi hoặc bỏ qua hoạt động xét hỏi trong một số vụ án. Những quy định được sửa đổi, bổ sung này sẽ bảo đảm tăng cường vai trò công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự nói chung, vụ án Cướp tài sản nói riêng.
Thứ hai, cần có quy định cho phép Kiểm sát viên luận tội về khoản nặng hơn so với khoản đã truy tố nếu thấy có đủ căn cứ để kết luận dựa trên diễn biến khách quan tại phiên toà. Cụ thể, cần sửa đổi khoản 3 Điều 321 BLTTHS theo hướng Kiểm sát viên được “đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết luận về khoản nặng hơn khoản mà cáo trạng đã truy tố hoặc tội nhẹ hơn tội mà cáo trạng đã truy tố; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng”. Quy định này sẽ khiến Kiểm sát viên có tinh thần trách nhiệm cao hơn trong việc luận tội. Đồng thời cũng có thể hạn chế các trường hợp trả hồ sơ điều tra bổ sung chỉ để Viện kiểm sát truy tố lại về khoản nặng hơn trong cùng một tội danh.
1.2. Tăng cường tổng kết, hướng dẫn Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự nhằm tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự.
Vào ngày 08/10/2021, TANDTC đã ban hành Quyết định số 355/QĐ-TANDTC về việc công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ thuộc lĩnh vực của TANDTC. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Theo Quyết định này, danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ thuộc lĩnh vực của TANDTC gồm 08 Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC và 06 Thông tư liên tịch do TANDTC chủ trì soạn thảo. Lý do hết hiệu lực là các Nghị quyết, Thông tư nêu trong danh mục là văn bản hướng dẫn quy định của Bộ luật Hình sự 1999. Đến nay, Bộ luật Hình sự 1999 đã hết hiệu lực.
Từ ngày Bộ luật Hình sự 1999 hết hết hiệu lực đến nay đã khá lâu mới được TANDTC công bố hết hiệu lực toàn bộ và đến nay vẫn chưa có văn bản mới thay thế hướng dẫn. Việc chậm ban hành văn bản hướng dẫn pháp luật hình sự, tố tụng hình sự gây khó khăn trong nhận thức và áp dụng pháp luật vào quá trình truy tố, xét xử, dẫn đến việc trả hồ sơ, thỉnh thị án kéo dài, không bảo đảm tính công khai minh bạch trong việc áp dụng pháp luật.
Trên thực tế, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn áp dụng “tinh thần” của các văn bản hướng dẫn Bộ luật Hình sự 1999, không trái với quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nhưng không viện dẫn điều, khoản của văn bản đó. Điều này cho thấy cơ chế tổng kết, hướng dẫn Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự còn nhiều thiếu sót, chưa kịp thời và chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn áp dụng. Việc áp dụng “tinh thần” của các văn bản hướng dẫn đã hết hiệu lực chỉ là giải pháp tình thế do chưa có hướng dẫn mới. Thiết nghĩ, giải pháp tình thế này không thể kéo dài quá lâu vì sẽ ảnh hưởng tới cơ sở pháp lý của các quyết định tố tụng. Do đó, các cơ quan liên ngành, mà đặc biệt là TANDTC cần tăng cường công tác tổng kết, hướng dẫn quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự một cách kịp thời nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn, nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố trong quá trình xét xử các vụ án hình sự nói chung, vụ án Cướp tài sản nói riêng.
2. Nhóm giải pháp cụ thể
2.1. Kiện toàn đủ bộ máy, tổ chức, biên chế, chức danh kiểm sát viên; đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung và vụ án Cướp tài sản nói riêng đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ hiện nay.
Tổ chức cán bộ trong ngành kiểm sát đóng vai trò then chốt đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố trong các vụ án hình sự, trong đó có giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Cướp tài sản. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ đòi hỏi phải có những chủ trương, chính sách đồng bộ từ Trung ương đến địa phương.
Thực tiễn cho thấy các vụ án hình sự ngày càng tăng, những địa bàn quận, huyện, thành phố, thị xã có tình hình tội phạm Cướp tài sản diễn biến phức tạp. Để tổ chức có hiệu quả việc thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Cướp tài sản, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao ở VKSND. Trong đó, Phòng nghiệp vụ cấp tỉnh thực sự là một bộ phận hướng dẫn, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ của Viện kiểm sát cấp huyện, thành phố, thị xã. Cũng giống như thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra hay các giai đoạn khác, thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm loại vụ án này cũng phải do những Kiểm sát viên chuyên trách, có bề dày kinh nghiệm đảm nhiệm, không nên kiêm nhiệm, dẫn đến không chuyên sâu, dàn trải.
Bên cạnh việc tổ chức cán bộ, cũng cần chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng năng lực Kiểm sát viên thông qua việc thường xuyên mở các lớp tập huấn, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm. Thực tế là một số cán bộ, Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm còn có những hạn chế nhất định về năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ, chưa đáp ứng được công việc được giao. Trường hợp định tội danh sai là do người tiến hành tố tụng nhận thức không đúng các dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội Cướp tài sản trong Bộ luật Hình sự, đánh giá không chính xác tình tiết vụ án, còn nhầm lẫn giữa tội Cướp tài sản với các tội phạm khác mà việc nhầm lẫn này ngoài nguyên nhân do pháp luật không rõ ràng, còn do năng lực chuyên môn hạn chế của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố.
2.2. Nâng cao chất lượng, kỹ năng đọc, viết, nghe, nói, tổng hợp... chất lượng xét hỏi, luận tội, tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án Cướp tài sản cho kiểm sát viên.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã ghi rõ “…Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết nêu trên của Bộ Chính trị, hoạt động nghiệp vụ của kiểm sát viên cũng được tăng cường, rèn luyện qua thực tiễn nhiều năm. Khi thực hành quyền công tố tại phiên toà, Kiểm sát viên đã thể hiện rõ vai trò, vị trí pháp lý là người đại diện Viện kiểm sát thay mặt Nhà nước thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, chủ động tham gia xét hỏi, làm rõ tội trạng của bị cáo. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế nhất định, chẳng hạn một số bản luận tội có nội dung không chặt chẽ, không phân tích, đánh giá các chứng cứ chứng minh tội phạm mà nặng về nêu diễn biến vụ án theo nội dung cáo trạng hoặc chỉ phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội và nhân thân của bị cáo, không nêu đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; hoặc khi tranh luận, Kiểm sát viên chưa làm rõ tất cả những vấn đề bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác đưa ra tại phiên toà; lý lẽ chưa sắc bén và chưa có tính thuyết phục cao.
Vì vậy, Kiểm sát viên cần nâng cao kỹ năng ghi chép, tổng hợp, xét hỏi, tranh luận, đối đáp tại phiên tòa. Tranh luận tại phiên toà là một giai đoạn trọng tâm, thể hiện vai trò của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, đồng thời là hoạt động giúp Hội đồng xét xử có cơ sở khi nghị án, tuyên bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Để việc tranh luận của Kiểm sát viên đạt chất lượng, hiệu quả, Kiểm sát viên phải xác định được những vấn đề chủ yếu cần phải tranh luận, đó là: Đánh giá việc kiểm tra, xem xét chứng cứ tại phiên toà đầy đủ, khách quan, toàn diện chưa. Làm rõ những ý kiến mâu thuẫn trong quá trình xét hỏi bảo đảm khách quan. Việc áp dụng chính sách hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; đề xuất hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, phù hợp với các quy định của pháp luật không… Có nghĩa là, Kiểm sát viên phải đánh giá chứng cứ của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ; phải kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của những tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra; phải kiểm tra, đối chiếu các tài liệu, chứng cứ đó tại phiên toà.
Kiểm sát viên cũng phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến của bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác trong phần đối đáp. Điều này đòi hỏi Kiểm sát viên phải nhanh nhạy, chủ động đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến, tuyệt đối không được lảng tránh việc đối đáp bằng việc “giữ nguyên quan điểm truy tố”.
Chất lượng tranh luận tại phiên toà của Kiểm sát viên phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó, một yếu tố rất quan trọng là kỹ năng tranh luận. Vì vậy, nâng cao kỹ năng tranh luận tại phiên toà là một yêu cầu đặt ra, đòi hỏi Kiểm sát viên phải nhận thức và nêu cao trách nhiệm của mình đối với các quyết định do mình đưa ra và phải chịu trách nhiệm trước Viện trưởng, trước pháp luật về những quyết định đó, đặc biệt là việc kết luận bị cáo về tội nhẹ hơn, về khung hình phạt nhẹ hơn hoặc thay đổi việc đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo…, đồng thời, nội dung tranh luận của Kiểm sát viên có chính xác, có sức thuyết phục, có ý nghĩa không chỉ để bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, mà còn nhận được sự đồng tình ủng hộ của dư luận xã hội.
2.3. Nâng cao kỹ năng phát hiện vi phạm, kháng nghị, kiến nghị bản án, quyết định sơ thẩm vụ án Cướp tài sản cho kiểm sát viên.
Phát hiện vi phạm, kiến nghị khắc phục vi phạm, kiến nghị bản án, quyết định sở thẩm trong xét xử vụ án hình sự nói chung, vụ án Cướp tài sản nói riêng là một trong những hoạt động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Để nâng cao chất lượng công tác này, đòi hỏi Kiểm sát viên cần quán triệt, nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng; nắm vững các dạng vi phạm của Tòa án; đảm bảo chặt chẽ nội dung và hình thức của bản kiến nghị.
Kiến nghị khắc phục vi phạm trong xét xử vụ án hình sự, được quy định tại Luật tổ chức VKSND năm 2014 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Đây là quyền năng pháp lý mà Luật quy định chỉ Viện kiểm sát được thực hiện khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, trong đó có thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vụ án hình sự.
Trên thực tế, Kiểm sát viên phần nào đã có những kiến nghị bảo đảm được yêu cầu về nội dung và hình thức, nêu rõ những vi phạm và những nội dung kiến nghị, qua đó, đã bảo đảm cho việc xét xử của Tòa án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời. Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc phát hiện vi phạm, kiến nghị bản án, quyết định sơ thẩm cũng còn một số tồn tại, hạn chế như: Chưa chú trọng thực hiện các biện pháp nhằm phát hiện vi phạm; công tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án có lúc, có nơi chưa kịp thời nên không phát hiện được vi phạm để tổng hợp, báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát xem xét việc kiến nghị yêu cầu Tòa án sửa chữa, khắc phục vi phạm; Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự có nhiều quy định mới nhưng việc giải thích, hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền chưa kịp thời, không đầy đủ. Nhiều vấn đề khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng hai Bộ luật này chưa được giải quyết hoặc được giải quyết nhưng chưa sát với thực tế, gây khó khăn trong quá trình áp dụng.
Vì vậy, cần tăng cường nâng cao kỹ năng phát hiện vi phạm, kỹ năng kiến nghị bản án, quyết định sơ thẩm cho Kiểm sát viên. Việc kiến nghị có thể theo từng vụ việc cụ thể hoặc tổng hợp nhiều vi phạm để kiến nghị nhưng phải kịp thời. Kiến nghị có thể bằng văn bản hoặc trao đổi trực tiếp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm, thiếu sót. Để thực hiện tốt công tác này, Kiểm sát viên phải xác định chính xác những vi phạm của Tòa án để kiến nghị, vi phạm đó được quy định tại điều, khoản nào của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và văn bản pháp luật có liên quan. Do đó, Kiểm sát viên phải nắm vững các quy định của pháp luật (Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và văn bản pháp luật có liên quan…), đối chiếu với việc áp dụng pháp luật của Tòa án trong xét xử án hình sự để phát hiện vi phạm. Ngoài ra, Kiểm sát viên cần mở sổ theo dõi, tổng hợp vi phạm trong xét xử các vụ án Cướp tài sản của Tòa án, thường xuyên cập nhật vi phạm, phản ánh đầy đủ, chính xác các vi phạm đã được phát hiện. Định kỳ tháng, quý, 06 tháng, hàng năm phải nhận xét, đánh giá về tính chất, mức độ vi phạm để báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát xem xét, quyết định việc kiến nghị theo từng vụ án, từng dạng vi phạm hay kiến nghị tổng hợp.
2.4. Tăng cường hướng dẫn, giải đáp pháp luật có chất lượng nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nói chung và các vụ án Cướp tài sản nói riêng.
Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung, vụ án Cướp tài sản nói riêng, việc quản lý nghiệp vụ thông qua hướng dẫn, giải đáp pháp luật đóng vai trò quan trọng. Thực tiễn nhận thức và áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát và Tòa án trong vụ án hình sự còn nhiều vướng mắc, nhiều trường hợp thỉnh thị về VKSND tối cao, TANDTC về pháp luật hình sự và tố tụng nhưng chưa được hướng dẫn kịp thời, đầy đủ bằng nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Nhiều hình thức hướng dẫn không chính thức như dưới dạng công văn, giá trị pháp lý không cao, có trường hợp quan điểm không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, nhận thức bất đồng giữa bên buộc và gỡ tội, giữa Tòa án các cấp khi vận dụng các công văn hướng dẫn đơn ngành. Vì vậy, tăng cường hướng dẫn, giải đáp pháp luật có chất lượng nhằm tháo gỡ khó khăn khi thực hành quyền công tố là đòi hỏi cấp thiết.
Hiện nay chưa có văn bản mới hướng dẫn Bộ luật Hình sự 2015. Điều này dẫn tới các cơ quan tiến hành tố tụng, bao gồm cả Viện kiểm sát thường phải “vận dụng” quy định trong các nghị quyết, thông tư liên tịch cũ đã hết hiệu lực, chẳng hạn như Thông tư liên tịch số 02/2001/TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật Hình sự 1999 (trong đó có tội Cướp tài sản). Các công văn giải đáp hướng dẫn của TANDTC và VKSND Tối cao, nếu có, thường không có giá trị pháp lý cao vì không phải nguồn luật, có mâu thuẫn với luật tố tụng nên trong thực tiễn áp dụng sẽ có khó khăn, bất cập.
Hướng dẫn áp dụng quy định của pháp luật, hướng dẫn xét xử cần phải được cơ quan có thẩm quyền ban hành chính thức cụ thể và không mâu thuẫn với các quy định của luật để không gây khó khăn cho công tác xét xử, phải trả hồ sơ kéo dài, ảnh hưởng đến quyền lợi của người bị buộc tội. Để tránh oan sai và hạn chế khiếu nại kéo dài trong hoạt động tư pháp, thực hiện cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền, cần khắc phục tình trạng này, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần tăng cường thực hiện hoạt động giải thích những quy định của các đạo luật tư pháp mới ban hành, tạo sự thống nhất trong nhận thức và áp dụng các quy định của pháp luật. Theo đó, thẩm quyền hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử phải được thực hiện đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Chỉ Hội đồng Thẩm phán TANDTC mới có quyền ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Theo đó, các bộ, ngành cần chấm dứt việc ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật không đúng thẩm quyền.
2.5. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói chung và vụ án Cướp tài sản nói riêng.
Để thực hành quyền công tố đạt hiệu quả tối đa, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa VKSND và các cơ quan tiến hành tố tụng khác.
Thứ nhất, phối hợp giữa VKSND với TAND.
Mối quan hệ phối hợp với TAND có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát. Hai cơ quan này cần có các nội dung phối hợp nhằm kịp thời trao đổi tài liệu, chứng cứ phát sinh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm để đánh giá đúng tính chất, nội dung vụ án; phối hợp trong tổ chức các phiên tòa, phiên họp, để đưa vụ án ra xét xử đúng thời hạn, đồng thời tạo điều kiện để Kiểm sát viên có thời gian hợp lý để chuẩn bị tham gia phiên tòa, hạn chế tình trạng phải hoãn phiên tòa; phối hợp trong chuyển, rút hồ sơ vụ án để việc tiến hành tố tụng, theo dõi kết quả được nhanh chóng, đúng tiến độ.
Thứ hai, phối hợp giữa VKSND với Cơ quan điều tra.
Mối quan hệ giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và VKSND trong hoạt động điều tra đối với tội Cướp tài sản còn chưa thường xuyên, thiếu chặt chẽ. Công tác phối hợp trong hoạt động điều tra và làm rõ tội phạm hình sự rất quan trọng và phức tạp. Trước khi Bộ luật Tố tụng hình sự ra đời, giữa hai ngành Công an - Viện kiểm sát đã có một số văn bản pháp lý quan trọng hướng dẫn chỉ đạo thực hiện mối quan hệ tố tụng hình sự giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, nhưng vẫn chưa được xây dựng một cách đồng bộ, đầy dủ và cụ thể, chỉ mới dừng ở một số quy định tạm thời và một số chế định tố tụng hình sự nhất định. Từ đó cho thấy, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng cùng nhận thức thống nhất và thực hiện nghiêm Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản hướng dẫn thi hành, cùng phối hợp chặt chẽ với nhau thì sẽ nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng ngừa tội phạm hình sự nói chung, tội phạm Cướp tài sản nói riêng. Đặc biệt sự phối hợp chặt chẽ giữa Cơ quan điều tra - Viện kiểm sát thì việc tham gia hoạt động kiểm sát ngay từ khi mới khởi tố vụ án sẽ đem lại hiệu quả cao trong việc khám phá và giải quyết án hình sự trên thực tế. Việc phối hợp xác định những án trọng điểm để các cơ quan tiến hành điều tra, truy tố, xét xử đảm bảo đúng thời hạn, góp phần vào công tác đấu tranh, trấn áp tội phạm, cùng với đó là việc tuyên tuyên truyền, phổ biến pháp luật phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương.
Thứ ba, phối hợp giữa VKSND với các cơ quan khác như với Cơ quan thi hành án trong công tác thi hành án đối với bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
2.6. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra trong hệ thống ngành kiểm sát nhân dân của cấp trên đối với Viện kiểm sát cấp dưới, kịp thời phát hiện vi phạm, thiếu sót để có biện pháp khắc phục, xử lý kịp thời.
Để hoạt động của Viện kiểm sát thực sự có hiệu quả, yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý, chỉ đạo điều hành là phải sát cơ sở, nắm chắc tình hình hoạt động của từng khâu công tác của cấp mình và cấp dưới để lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn thực hiện, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc khắc phục sai phạm, thiếu sót trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Một trong những biện pháp quan trọng của công tác kiểm tra, thanh tra của VKSND cấp trên đối với cấp dưới để phát hiện những thiếu sót, sai phạm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhằm uốn nắn kịp thời và khắc phục những sai phạm đó hoặc có thể rút kinh nghiệm chung trong từng khâu công tác.
Việc hướng dẫn, chỉ đạo chính xác kịp thời như trả lời, hướng dẫn cho cơ quan cấp dưới phải được nâng cao về chất lượng, bảo đảm tính chính xác, tránh việc hướng dẫn không rõ ràng gây khó khăn cho cấp dưới thực hiện. Ngoài ra, ở mỗi cấp và từng khâu công tác phải thực hiện tốt chế độ báo cáo án, báo cáo nghiệp vụ, chế độ báo cáo định kỳ theo đúng quy định của ngành.
Việc quản lý, chỉ đạo, điều hành ở từng khâu công tác phải bảo đảm chế độ tập trung thống nhất trong ngành, nhưng cũng cần thực hiện tốt chế độ phân cấp quản lý theo quy định tại các Quy chế nghiệp vụ của ngành. Có như vậy mới tăng cường chế độ, trách nhiệm và mới phát huy được tính chủ động sáng tạo của kiểm sát viên trong hoạt động thực hành quyền công tố trong vụ án hình sự nói chung và các vụ án Cướp tài sản nói riêng.
2.7. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện, chế độ tiền lương cho cán bộ, kiểm sát viên.
Trong những năm vừa qua, thực hiện chủ chương cải cách tư pháp, Đảng và Nhà nước cũng như VKSND Tối cao đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc và bố trí kinh phí hoạt động cho các đơn vị. Việc mua sắm trang thiết bị, phương tiện phục vụ công tác nghiệp vụ, cơ bản đã trang bị đủ cho các VKSND cấp huyện. Thực hiện đề án tin học hóa quản lý nhà nước trong ngành kiểm sát nhân dân, VKSND các cấp đã chú trọng đầu tư trang thiết bị, đào tạo cán bộ và ứng dụng công nghệ thông tin vào lĩnh vực công tác của ngành.
Tuy nhiên, về cơ bản vẫn chưa có cơ chế chính sách đặc biệt để phục vụ tốt cho công tác thực hành quyền công tố có hiệu quả. Trong đó bất cập lớn nhất là chưa có chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với cán bộ, kiểm sát viên, chưa có kinh phí lớn để đầu tư trang thiết bị đáp ứng công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Nhìn chung, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ công chức ngành tư pháp nói chung, với kiểm sát viên nói riêng hiện nay còn rất khiêm tốn, áp lực cộng việc cao dẫn đến một số cá nhân cán bộ không còn gắn bó thiết tha với ngành nên đã xin nghỉ việc. Trong ngành kiểm sát, những quy định mới về tăng thẩm quyền, mở rộng phạm vi kiểm sát, quy định về giám sát chặt chẽ về hoạt động điều tra, số lượng án ngày càng tăng, hành vi, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, xảo quyệt, băng nhóm tội phạm ngày càng lớn song vẫn phải thực hiện chủ trương tinh gọn bộ máy nên áp lực càng lớn. Vì vậy, cần xem xét tạo cơ chế đãi ngộ tăng cường cho cán bộ ngành kiểm sát để phù hợp với khối lượng, phạm vi công việc phải đảm nhận. Đây cũng là một yếu tố để cán bộ kiểm sát yên tâm công tác và cống hiến được nhiều hơn.
Nói tóm lại để tăng cường hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nói chung, hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Cướp tài sản nói riêng, cần thực hiện các giải pháp trên các mặt như: hoàn thiện hệ thống pháp luật về thực hành quyền công tố vụ án Cướp tài sản mà chủ yếu là Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự; kiện toàn bộ máy cơ cấu tổ chức, nâng cao năng lực chuyên môn của Kiểm sát viên trong quá trình thực hành quyền công tố giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Cướp tài sản, thể hiện qua các kỹ năng ghi chép, xét hỏi, phát hiện vi phạm, kiến nghị bản án, quyết định sơ thẩm, kỹ năng tranh tụng và luận tội tại phiên tòa. Đặc biệt, cần có sự giám sát, kiểm tra chặt chẽ giữa VKSND cấp trên với cấp dưới; thường xuyên tiến hành bồi dưỡng nghiệp vụ, rút kinh nghiệm công tác; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng khác như Tòa án, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án để ngày một nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án Cướp tài sản, thể hiện đúng tính chất, vai trò của ngành kiểm sát đối với loại tội phạm này.
Phạm Tú Anh, Nguyễn Thị Hà, Vũ Thị Thu Hà - Phòng 7