Một vài trao đổi về công tác phòng ngừa tội phạm

Huỳnh Phương Linh

Phòng ngừa tội phạm là hoạt động có tổ chức, có mục đích, có sự đầu tư nhằm hạn chế sự hình thành và phát triển của tội phạm. Hiện nay, phòng ngừa tội phạm cũng đã được xây dựng thành các chương trình, kế hoạch cụ thể bên cạnh các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.

Thực tiễn công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm những năm vừa qua, có chiều hướng gia tăng, đặc biệt là nhóm tội phạm xâm phạm về sức khỏe, như cố ý gây thương tích, giết người, hủy hoại tài sản... Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự việc phạm tội chỉ xuất phát từ những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống giữa những người có quan hệ thân thuộc với nhau như vợ chồng, anh em, quan hệ họ hàng, thông gia, hàng xóm..., làm rạn nứt tình cảm, mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân.

 Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều giải pháp tăng cường đấu tranh phòng chống tội phạm, tùy theo tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội mà áp dụng các chế tài phù hợp, kết hợp công tác giáo dục tư tưởng, tuyên truyền pháp luật thông qua hoạt động xét xử lưu động, nêu gương người tốt việc tốt ... Tuy nhiên số lượng các bị can, bị cáo tái phạm, tái phạm nguy hiểm hàng năm vẫn tăng.

Xuất phát từ thực tiễn đó, nhận thấy cần phải quan tâm hơn nữa đến việc nâng cao nhận thức của đội ngũ Kiểm sát viên trong công tác phòng chống tội phạm. Mỗi cán bộ kiểm sát phải hiểu: đấu tranh với tội phạm cũng chính là phòng ngừa tội phạm, nhưng phòng ngừa tội phạm không chỉ là đấu tranh đến cùng với tội phạm mà còn cần quan tâm đến công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật, xây dựng ý thức pháp luật.

Muốn làm được việc đó, cần phải thấm nhuần tư tưởng của cố Tổng bí thư Lê Duẩn: “Vấn đề không phải là xử một vụ án, trừng phạt một tội phạm nào đó. Điều quan trọng là phải tìm mọi cách để làm giảm bớt những hành động phạm pháp và tốt hơn hết là ngăn ngừa đừng để các việc sai trái xảy ra”. Đây cũng là phương hướng chính, là tư tưởng chỉ đạo nhất quán trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta từ trước tới nay.

Mỗi cán bộ kiểm sát viên, khi giải quyết một vụ án, cần tìm đến gốc rễ của vụ việc, phân tích, đánh giá nguyên nhân phạm tội và giải thích để người thực hiện hành vi phạm tội hiểu các quy định của pháp luật, cũng như các quy tắc, chuẩn mực trong từng trường hợp, nhằm giáo dục họ ý thức tuân thủ pháp luật, góp phần ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm.

Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động điều tra, phải hiểu và vận dụng đúng nguyên tắc suy đoán vô tội, hướng tới mọi hành động, quyết định của cán bộ kiểm sát viên phải xuất phát từ suy nghĩ: những người bị buộc tội không phải là người phạm tội, cho đến khi bản án của tòa án có hiệu lực. Mọi chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội cần được đánh giá khách quan, có căn cứ. Trường hợp không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật hình sự quy định thì phải kết luận người đó không có tội. Có như vậy, vừa tránh được oan, sai, vừa tránh bỏ lọt tội phạm.

Quá trình kiểm sát hoạt động điều tra, cũng cần phải quan tâm đến gia cảnh, những yếu tố tâm lý tác động đến hành vi người thực hiện hành vi phạm tội. Nói cách khác, ngoài việc điều tra, khám phá tội phạm, nên xem xét đến những biểu hiện về tâm lý của người đó, để có định hướng và biện pháp giáo dục kịp thời.

Công tác hòa giải trong vụ án hình sự giữa bị can, bị cáo và người bị hại cũng rất quan trọng, vì mâu thuẫn giữa hai bên có thể là nguyên nhân dẫn đến các tranh chấp khác, những hành vi vi phạm, tội phạm khác nếu không được giải quyết triệt để. Làm tốt công tác hòa giải, còn có thể giúp bị can, bị cáo có những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ hình phạt, tạo cho họ một cơ hội làm lại, tránh tái phạm.

Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử, kiểm sát viên cũng cần quan tâm hơn nữa đến công tác tuyên truyền pháp luật không chỉ cho bị cáo hiểu, mà còn cho gia đình bị cáo và những người dân tham gia phiên tòa. Việc này nên được thực hiện chủ động, liên tục, có chất lượng, chứ không chỉ tập trung vào các phiên tòa xét xử lưu động. Đồng thời, kiểm sát viên phải cân nhắc thật kỹ trước khi đưa ra đề nghị về hình phạt đối với các bị cáo, vì việc áp dụng hình phạt thật nặng, chưa chắc đã mang đến hiệu quả, bằng việc áp dụng hình phạt hợp lý, hợp tình.

Bài viết đưa ra những quan điểm cá nhân, hy vọng sẽ nhận được sự quan tâm của độc giả.

Dương Thị Ngọc Loan – VKS huyện Thường Tín

Bài viết trước Các dạng vi phạm dẫn đến bị hủy, sửa án khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình
Bài viết tiếp theo Vướng mắc trong việc thụ lý và giải quyết yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
In
2527 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều