Vướng mắc trong việc thụ lý và giải quyết yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự hay yêu cầu giải quyết việc dân sự của các chủ thể là một trong những nội dung của nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Từ việc thực hiện quyền này của các chủ thể, sẽ dẫn đến việc Tòa án có thẩm quyền nhận được hồ sơ vụ, việc dân sự.
Thụ lý vụ, việc dân sự là hoạt động đầu tiên của Tòa án trong quá trình tố tụng, làm phát sinh các hoạt động TTDS tiếp theo. Việc thụ lý vụ, việc dân sự có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện ở chỗ: Thời điểm thụ lý vụ, việc dân sự là thời điểm tính các thời hạn tố tụng; bảo đảm việc bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Trong thực tế thường xảy ra nhầm lẫn giữa vụ việc dân sự và vụ án dân sự. Việc cá nhân, tổ chức yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự hay khởi kiện vụ án dân sự dẫn đến những kết quả rất khác nhau. Liên quan đến vấn đề này tác giả đưa ra ví dụ cụ thể sau đây:
Năm 1991, chị Vũ Hồng L lấy anh Lê Văn X. Quá trình chung sống anh X, chị L được mẹ anh X là bà Nguyễn Thị Y cho vợ chồng anh chị 206m2 đất ở tại số 4 Tổ 25 Phường H, quận M, Hà Nội. Năm 1993, anh X, chị L làm nhà trên mảnh đất đó nhà xây 02 tầng mỗi tầng 60m2.
Năm 2009, anh X mất, chị L làm thủ tục thỏa thuận khai nhận di sản thừa kế. Khi làm chị L không bàn bạc với mẹ chồng là bà Nguyễn Thị Y. Chị L đã nhờ người làm dịch vụ hoàn tất thủ tục tại Văn phòng Công chứng VT do Công chứng viên là ông N.M.H ký lập ngày 7/9/2010.
Ngày 14/9/2009, do cần tiền để kinh doanh chị Vũ Hồng L và Ngân hàng DA cùng ký kết Hợp đồng tín dụng số tiền vay là: 3.000.000.000đồng. Để đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ và các nghĩa vụ khác của mình chị Vũ Hồng L và Ngân hàng DA đã ký Hợp đồng thế chấp tài sản tại Văn phòng Công chứng TL, Hà Nội. Theo đó chị Vũ Hồng L đã thế chấp tài sản là 206m2 đất và tài sản gắn liền với đất, tại thửa đất số số 4 Tổ 25 Phường H, quận M, Hà Nội đăng ký sang tên cho chị Vũ Hồng L ngày 21/7/2009.
Trong quá trình thực hiện Hợp đồng, chị Vũ Hồng L đã không thực hiện trả nợ. Ngày 25/12/2013, Ngân hàng gửi thông báo yêu cầu chị L trả nợ và bàn giao tài sản bảo đảm cho Ngân hàng xử lý theo quy định. Đến thời điểm này bà Nguyễn Thị Y mới biết sự việc trên. Cho rằng văn bản khai nhận di sản thừa kế do Công chứng viên N.M.H - Văn phòng Công chứng VT lập ngày 7/9/2010 ảnh hưởng đến quyền lợi của mình. Ngày 15/03/2015, bà Nguyễn Thị Y đã khởi kiện yêu cầu TAND Tòa án nhân dân Quận C tuyên bố văn bản này vô hiệu.
Ngày 20/03/2015, Tòa án nhân dân Quận C thụ lý vụ án dân sự xác định:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Y Sinh năm: 1926
Bị đơn: Văn phòng công chứng VT (Nay là Văn phòng công chứng TQM)
Đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn X – Trưởng Văn phòng
Người có QLNVLQ: * Chị Vũ Hồng L (Hiện đang thụ hình tại Trại giam số 5 TH)
* Ngân hàng DA
Sau khi thụ lý vụ án, tòa án nhân dân quận C đã tống đạt cho các đương sự. Nguyên đơn, bị đơn có ý kiến trình bày như nội dung trên. Tuy nhiên, khi Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn là Văn phòng công chứng VT (Nay là Văn phòng công chứng TQM). Văn phòng công chứng TQM có ý kiến như sau: Ngày 25/9/2012 Sở Tư pháp TP Hà Nội đã ra Quyết định chỉ định Văn phòng Công chứng TQM thực hiện việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ văn bản công chứng của Văn phòng công chứng VT do Văn phòng công chứng VT đã chấm dứt hoạt động năm 2012 vì công chứng viên duy nhất đã chết, Sở tư pháp thu hồi quyết định. Việc tuyên bố một văn bản công chứng vô hiệu là quyền của Tòa án nhân dân căn cứ vào các điều kiện do pháp luật quy định. Do vậy Văn phòng Công chứng TQM không phải là bị đơn trong vụ án này.
Liên quan đến việc xác định quan hệ pháp luật và tư cách đương sự trong vụ án trên có 02 quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, Tòa án nhân dân Quận C thụ lý vụ án dân sự và xác định Văn phòng Công chứng TQM là bị đơn là đúng.
Quan điểm thứ hai cho rằng, Tòa án nhân dân Quận C thụ lý vụ án dân sự và xác định Văn phòng Công chứng TQM là bị đơn là không đúng. Trong vụ việc trên Tòa án nhân dân Quận C thụ lý việc dân sự và xác định Văn phòng Công chứng TQM là người liên quan mới chính xác.
Nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự liên quan đến thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự, tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai với các lý do sau:
Thứ nhất: Dấu hiệu pháp lý cơ bản nhất để phân biệt việc dân sự với vụ án dân sự là yếu tố có tranh chấp hay không. Cụ thể: Theo quy định tại Điều 361 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định:
Việc dân sự là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân không có tranh chấp, nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
Còn vụ án dân sự là các tranh chấp xảy ra giữa các đương sự mà theo quy định của BLTTDS thì cá nhân, cơ quan, tổ chức tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, cơ sở pháp lý để tòa thụ lý yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu trong các quy định trên rất đầy đủ và rõ ràng. Cụ thể việc dân sự thuộc loại không phải chứng minh và không có tranh chấp.
Thứ hai: Theo khoản 6 Điều 27 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu là việc dân sự (không có tranh chấp, không có bị đơn). Việc Tòa án nhân dân Quận C thụ lý vụ án dân sự dẫn đến sự biến đổi bản chất vụ việc, biến chuyện đơn giản thành phức tạp, biến cái không tranh chấp thành cái có tranh chấp, tạo ra xung đột giữa nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có sự đối kháng với nhau về mặt lợi ích.Tại Khoản 3 Điều 68 Bộ luật TTDS năm 2015 quy định:
Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.
Như vậy, theo quy định nêu trên được hiểu bị đơn trước tiên phải là người đang còn sống tại thời điểm bị nguyên đơn khởi kiện. Tòa án nhân dân quận C xác định Văn phòng Công chứng VT - Nay là Văn phòng công chứng TQM là bị đơn trong vụ án theo tác giả là không đúng. Bởi lẽ, Văn phòng công chứng VT đã chấm dứt hoạt động, công chứng viên duy nhất đã chết nên Sở Tư pháp TP Hà Nội chỉ định Văn phòng Công chứng TQM tiếp nhận, khai thác hồ sơ công chứng của Văn phòng công chứng VT. Trong vụ việc này giữa nguyên đơn - bà Nguyễn Thị Y và Văn phòng Công chứng TQM không có bất kỳ tranh chấp gì liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. Do vậy, trong trường hợp này Tòa án nhân dân quận C cần căn cứ vào quy định tại Điều 52 Luật Công chứng năm 2014, Khoản 6 Điều 27 Bộ luật TTDS và Điều 4 Nghị quyết 03/2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao để xác định đây là việc dân sự và đưa Văn phòng Công chứng TQM tham gia với tư cách người có liên quan sẽ phù hợp và có căn cứ hơn.
Rõ ràng là pháp luật đã quy định yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu là quyền dân sự trọng yếu. Song qua thực tế, với đơn yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khiến cho tòa án còn lúng túng, lạ lẫm. Đáp ứng đòi hỏi đó, Bộ luật Tố tụng dân sự mới (luật số 92/2015/QH13) được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/11/2015 tại kỳ họp thứ 10 đã hoàn thiện hơn khi bổ sung Chương XXIX “Thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu”. Thiết nghĩ đây chính là cơ sở pháp lý, là hành lang pháp lý đầy đủ và rõ ràng để tòa thụ lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu tuyên văn bản công chứng vô hiệu.
Lê Thị Hồng Hạnh – VKS quận Hai Bà Trưng