Các dạng vi phạm dẫn đến bị hủy, sửa án khi kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình

Huỳnh Phương Linh

Nhằm nâng cao chất lượng công tác kháng nghị theo tinh thần chỉ thị số 10/CT-VKSTC ngày 6/4/2016 của Viện Trưởng VKSTC, về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm các vụ việc dân sự, HNGĐ. Tôi xin trao đổi cùng bạn đọc để tham khảo một số dạng vi phạm trong bản án sơ thẩm bị cấp phúc thẩm sửa hủy góp phần tăng cường kinh nghiệm, kỹ năng phát hiện vi phạm của Kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, HNGĐ của Tòa án. Cụ thể như sau:

Một là: Không đưa người có quyền và lợi ích liên quan tham gia tố tụng trong vụ án

+ Đối với một vụ án dân sự: ngoài nguyên đơn, bị đơn còn có người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án tham gia tố tụng dân sự. Ví dụ trong các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất hoặc các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, trong đó đất thuộc quyền sở hữu của hộ gia đình hoặc khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất không chuyển nhượng tài sản trên đất(Nhà và các công trình xây dựng, cây cối…), nhưng Tòa án không đưa các thành viên của hộ gia đình hoặc những người đang sử dụng tài sản trên đất vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, dẫn đến vụ án giải quyết không được toàn diện, không đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.

+ Đối với vụ án HNGĐ có tranh chấp chia tài sản chung của vợ chồng, thì người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có thể là chủ nợ tài sản của vợ chồng( Ngân hàng), mặc dù ngân hàng chưa có yêu cầu đòi nợ, song các đương sự có yêu cầu Tòa án phân chia khoản nợ này. Nhưng Tòa án lại không đưa ngân hàng vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi liên quan trong vụ án.

+ Nguyên đơn có yêu cầu xin hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn, nhưng Tòa án sơ thẩm không đưa UBND vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Hai là: Việc đánh giá thu thập chứng cứ chưa đầy đủ, không khách quan

Trong vụ án liên quan đến quyền sử dụng đất, để xác định chính xác nguồn gôc đất tranh chấp làm căn cứ cho việc giải quyết vụ án. Tòa án cần tiến hành thu thập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại cơ quan quản lý có thẩm quyền. Trên thực tế, Tòa án không thu thập mà chỉ căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đánh giá chứng cứ, dẫn đến việc giải quyết vụ án chưa đảm bảo quyền lợi của đương sự. Ví dụ: Ông H mua đất của bà A trên cơ sở giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên một mình bà A. Sau khi mua bà A không bàn giao đất cho ông H. Dẫn đến việc ông H khởi kiện ra Tòa án yêu cầu “ Đòi tài sản”. Tòa án có tiến hành thu thập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà A, biết bà A được đứng tên trong giấy chứng nhận là do khai nhận di sản thừa kế, nhưng việc khai nhận di sản thừa kế của bà A còn thiếu người được thừa kế theo quy định tại Điều 676 BLDS và vi phạm thủ tục niêm yết văn bản khai nhận di sản thừa kế( Niêm yết không đủ 30 ngày theo quy định tại Khoản 3 Điều 52, Điều 53 của NĐ 75/2000 ngày 8/12/2000 quy định về công chứng, chứng thực). Song khi giải quyết vụ án, Tòa án không xem xét đánh giá đến chứng cứ này, mà chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, gây thiệt hại cho các đương sự . Trong trường hợp này Kiểm sát viên cần báo cáo lãnh đạo viện để kháng nghị.

Ba là: Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu nhưng không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, gây thiệt hại cho đương sự. Ví dụ : bà Nguyễn Thị A bị bán sang Trung Quốc năm 1996, không tìm được đường về. Năm 2003 anh Nguyễn Văn B( con trai bà A) làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố bà A mất tích, trong quyết định số 05/DSST ngày 15/7/2003 tuyên bố bà A mất tích và giao toàn bộ tài sản của bà là thửa đất số 79, tờ bản đồ 1997, diện tích 667m2 cho anh B quản lý, sử dụng cho đến khi bà trở về. Ngày 3/1/2005 anh B có biên bản cam kết đổi nhà đất cho ông Nguyễn Văn H với nội dung: Ông H sử dụng nhà đất do anh B đang quản lý của bà A đi biệt tích từ năm 1996 và trả cho anh B tiền chênh lệch giá trị đất là 30.000.000đ, anh B sử dụng 100m2 nhà đất của ông H. Anh B và ông H sử dụng nhà đất chuyển đổi ổn định từ đó đến tháng 9 năm 2011thì bà A trở về. Ngày 7/9/2012 Tòa án có quyết định số 03/QĐST- VDS tuyên hủy quyết QĐ 05/DSST ngày 15/7/2003 tuyên bố bà A mất tích. Ngày 26/3/2013 bà A khởi kiện ra tòa án yêu cầu đòi quyền sử dụng đất đối với ông H và hủy cam kết đổi nhà đất ngày 3/1/2005. Tòa án sơ thẩm đã chấp nhận đơn khởi kiện của bà A và tuyên cam kết đổi nhà đất ngày 3/1/2005 là giao dịch trái pháp luật quy định tại Điều 128 BLDS do vi phạm về mặt chủ thể giao kết hợp đồng là có căn cứ, nhưng lại không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là vi phạm điều 137 BLDS. Vì vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên hủy án sơ thẩm để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự.

Bốn là: Tòa án cấp sơ thẩm đã tạm đình chỉ giải quyết vụ án để bổ sung người tham gia tố tụng, tuy nhiên sau đó lại không tiến hành hòa giải giữa nguyên đơn, bị đơn và những người tham gia tố tụng này

          Năm là: vi phạm về thành phần hội đồng định giá không đúng với thành phần trong quyết định thành lập hội đồng định giá của Tòa án. Sau khi định giá đương sự có đơn yêu cầu định giá lại tài sản, Tòa án thấy có căn cứ kết quả định giá lần đầu không chính xác hoặc không phù hợp với giá thị trường nơi có tài sản định giá tại thời điểm giải quyết vụ án, thì cho tiến hành định giá lại tài sản nhưng vẫn do Hội đồng định cũ hoặc có một trong các thành viên của Hội đồng cũ tiến hành. Đây là vi phạm tố tụng nghiêm trọng được quy định tại Điều 104 BLTTDS và tại khoản 3 Điều 18 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 28/3/2014 hướng dẫn thi hành Điều 92 BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản quy định “ Việc định giá lại tài sản phải do Hội đồng định giá khác thực hiện….”, nhưng các Kiểm sát viên cũng như Thẩm phán không để ý, dẫn đến án bị hủy làm cho việc giải quyết vụ án bị kéo dài, gây bức xúc cho đương sự.

          Sáu là: Đối với các vụ án bị hủy nhiều lần. Kiểm sát viên cần chú ý thành

phần hội đồng xét xử, kiểm sát viên, kiểm tra viên, thư ký, xem những người này đã từng tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án đó chưa. Nếu có vi phạm về người tiến hành tố tụng theo quy định tại các Điều 52,53,54 BLTTDS kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo để kháng nghị.

Nguyễn Mai Thanh - KSV trung cấp phòng 9

Bài viết trước Một số kinh nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Bài viết tiếp theo Một vài trao đổi về công tác phòng ngừa tội phạm
In
2989 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều