Một số vướng mắc về quy định khởi tố bị can và hỏi cung bị can của Bộ luật TTHS năm 2015
Khởi tố bị can và hỏi cung bị can là hoạt động tố tụng hình sự bắt buộc của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng. Việc khởi tố bị can đánh dấu sự kiện pháp lý quan trọng, xác định tư cách tham gia tố tụng của một người hoặc của một pháp nhân thương mại và đồng thời có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế về quyền của con người, quyền của pháp nhân thương mại. Khởi tố bị can, hỏi cung bị can có ý nghĩa rất to lớn trong việc thu thập chứng cứ chứng minh, có hành vi phạm tội xảy ra hay không? vào thời gian, địa điểm, ai là người thực hiện hành vi phạm tội, đảm tính chính xác, nhanh chóng và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn một số bất cập, khó khăn trong việc áp dụng quy định của pháp luật. Phạm vi bài viết chủ ý nêu ra một số vướng mắc, bất cập trong việc quy định khởi tố bị can (Điều 179) và quy định về hỏi cung bị can (Điều 183) khi áp dụng các điều luật này của Bộ luật hình sự năm 2015.
* Điều 179. Khởi tố bị can
Khoản 1, 2, 3, 4...
Khoản 5 quy định: Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải chụp ảnh, lập danh bản, chỉ bản của người bị khởi tố và đưa vào hồ sơ vụ án. Việc giao, nhận các quyết định nêu trên được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này.
- Điều luật được nhà làm luật xây dựng thành 05 (năm) khoản: Khoản 1 quy định về căn cứ để khởi tố bị can, chỉ được khởi tố bị can khi có đủ căn cứ xác định một người hoặc pháp nhân đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm. Khoản 2 quy định về quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ về thời gian, địa điểm ra quyết định; phải nêu rõ họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, quốc tịch, dân tộc, tôn giáo, giới tính, chỗ ở, nghề nghiệp của người bị khởi tố, pháp nhân thương mại bị khởi tố về tội cụ thể theo điều, khoản đã được quy định trong Bộ luật hình sự; thời gian, địa điểm mà cá nhân hay pháp nhân thương mại thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác của tội phạm. Khoản 3 quy định về thời gian trong thời hạn 24 giờ kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can, thì Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên quan đến việc khởi tố bị can cho Viện kiểm sát cùng cấp để Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu đánh giá chứng cứ xét phê chuẩn. Đồng thời điều luật quy định trong thời hạn 03 ngày kể từ khi nhận được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải ra một trong hai quyết định là quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can. Trường hợp chưa đủ căn cứ để xác định bị can có tội hoặc không có tội mà phải cần thêm chứng cứ tài liệu khác thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung chứng cứ, tài liệu để làm căn cứ quyết định việc phê chuẩn khởi tố bị can hay quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, việc quyết định phê chuẩn hay hủy bỏ của Viện kiểm sát chỉ được thực hiện trong thời hạn là 03 ngày và gửi ngay cho Cơ quan điều tra. Khoản 4 quy định quyền và trách nhiệm của Viện kiểm sát giai đoạn kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can mà phát hiện thấy có người đã thực hiện hành vi tội phạm nhưng chưa được khởi tố thì Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can hoặc trực tiếp ra quyết định khởi tố bị can nhưng với điều kiện Viện kiểm sát đã yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố mà Cơ quan điều tra không ra quyết định khởi tố bị can. Quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát phải được gửi cho Cơ quan điều tra trong thời hạn là 24 giờ để tiến hành điều tra; giai đoạn kết thúc điều tra, Viện kiểm sát phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi tội phạm trong vụ án nhưng chưa được khởi tố thì Viện kiểm sát có quyền ra quyết định khởi tố bị can sau đó trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung làm rõ hành vi phạm tội mà Viện kiểm sát đã quyết định khởi tố. Khoản 5 quy định trách nhiệm của Cơ quan điều tra sau khi nhận được quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can hoặc quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát, thì Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can; đồng thời phải chụp ảnh, lập danh bản, chỉ bản của người bị khởi tố và đưa vào hồ sơ vụ án.
- Như vậy, khoản 5 của điều luật này quy định Cơ quan điều tra phải giao quyết định khởi tố bị can cho người bị khởi tố thuộc 02 (hai) trường hợp, cụ thể là:
+ Trường hợp thứ nhất là giao ngay cho người bị khởi tố quyết định khởi tố bị can do Cơ quan điều tra trực tiếp khởi tố sau khi đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn;
+ Trường hợp thứ hai là giao quyết định khởi tố bị can do Viện kiểm sát trực tiếp khởi tố.
* Điều 183. Hỏi cung bị can
Khoản 1 quy định: Việc hỏi cung bị can do Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó. Trước khi hỏi cung bị can, Điều tra viên phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chữa thời gian, địa điểm hỏi cung. Khi xét thấy cần thiết, Kiểm sát viên tham gia việc hỏi cung bị can.
Khoản 2 quy định: Trước khi tiến hành hỏi cung lần đầu, Điều tra viên phải giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 60 của Bộ luật này. Việc này phải ghi vào biên bản. Trường hợp vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người và không để họ tiếp xúc với nhau. Có thể cho bị can viết bản tự khai của mình.
Khoản 3, 4, 5, 6....
- Điều luật có cấu trúc làm 06 khoản: Khoản 1 quy định về trách nhiệm của Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can; trước khi hỏi cung bị can phải thông báo cho Kiểm sát viên và người bào chữa biết về thời gian, địa điểm hỏi cung. Khoản 2 quy định lần đầu hỏi cung, Điều tra viên phải có trách nhiệm giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can. Khoản 3 quy định trường hợp cấm không được hỏi cung. Khoản 4 quy định trường hợp bắt buộc Kiểm sát viên phải hỏi cung. Khoản 5 quy định không được bức cung, nhục hình. Khoản 6 quy định các trường hợp hỏi cung phải được ghi âm, ghi hình.
Như vậy, khoản 1, 2 của điều luật này quy định Điều tra viên phải tiến hành hỏi cung ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can, có nghĩa là Điều tra viên tiến hành hỏi cung bị can khi quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra chưa có hiệu lực pháp luật, vì Viện kiểm sát chưa ra quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Hỏi cung lần đầu, Điều tra viên phải giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can khi quyết định khởi tố bị can chưa có hiệu lực pháp luật.
* Đối chiếu với quy định khoản 5, Điều 179 thì: Cơ quan điều tra chỉ được giao quyết định khởi tố bị can do Cơ quan điều tra trực tiếp khởi tố và giải thích quyền, nghĩa vụ cho bị can sau khi quyết định khởi tố bị can này đã được Viện kiểm sát phê chuẩn; trừ trường hợp quyết định khởi tố bị can là do Viện kiểm sát trực tiếp quyết định. Trong khi đó, khoản 1, Điều 183 quy định: Việc hỏi cung phải được Điều tra viên tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can; khoản 2 quy định: Trước khi hỏi cung lần đầu, Điều tra viên phải giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 60 của Bộ luật này và được ghi vào biên bản. Quy định về khỏi tố bị can (Điều 179) và quy định về hỏi cung bị can (Điều 183) có nhiều vấn đề chưa hợp lý về thời gian mà thực tế cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng gặp khó khăn trong việc thực hiện các quy định này.
- Trường hợp Cơ quan điều tra, Điều tra viên thực hiện theo quy định của Điều 179 là giao quyết định khởi tố bị can cho người bị khởi tố sau khi đã được Viện kiểm sát phê chuẩn quyết định khởi tố mà thời hạn phê chuẩn quyết định khởi tố bị can không quá 03 ngày, chưa tính đến trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu (thời hạn phê chuẩn được kéo dài) thì vi phạm Điều 183 là hỏi cung bị can phải được tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can, hỏi cung lần đầu Điều tra viên phải giải thích cho bị can biết về quyền và nghĩa vụ của bị can. Việc quy định hỏi cung bị can, giải thích cho người bị khởi tố biết về quyền và nghĩa vụ của bị can trong khi người bị khởi tố chưa được giao nhận quyết định khởi tố bị can, chưa xác định chính thức tư cách tham gia tố tụng trong vụ án là không hợp lý.
- Trường hợp Cơ quan điều tra, Điều tra viên thực hiện theo quy định của Điều 183 là hỏi cung bị can phải được tiến hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can, hỏi cung lần đầu Điều tra viên phải giải thích cho bị can biết về quyền và nghĩa vụ của bị can; quyền của bị can là được biết lý do mình bị khởi tố, nhận quyết định khởi tố bị can (Điều 60 Bộ luật TTHS) thì vi phạm quy định của Điều 179 là giao quyết định khởi tố bị can khi chưa được Viện kiểm sát phê chuẩn.
- Xét về mối liên hệ thì 02 (hai) điều luật này có mối quan hệ giàn buộc với nhau về thời gian và trình tự áp dụng pháp luật, đây là quan hệ lệ thuộc với nhau, quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra có hiệu lực pháp luật khi đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Khi quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra có hiệu lực pháp luật thì Điều tra viên mới được thực hiện việc giao quyết định khởi tố bị can cho người bị khởi tố và thời điểm này người bị khởi tố mới chính thức được xác định tư cách tham gia tố tụng là bị can trong vụ án hình sự; cùng thời điểm này Điều tra viên mới được tiến hành hỏi cung, có trách nhiệm giải thích quyền và nghĩa vụ cho bị can theo quy định tại Điều 60 Bộ luật TTHS. Nhưng quy định của khoản 5 Điều 179 và quy định của khoản 1, khoản 2 Điều 183 Bộ luật TTHS mâu thuẫn với nhau về thời điểm giao quyết định khởi tố bị cho người bị buộc tội, không theo trình tự từ quyết định khởi tố bị can đến phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, giao quyết định khởi tố, giao quyết định phê chuẩn, giải thích quyền và nghĩa vụ của bị can, hỏi cung bị can. Các vi phạm này đều là vi phạm về trình tự thủ tục tố tụng. Công tác kiểm sát việc chấp hành quy định hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát gặp rất nhiều khó khăn, cụ thể như yêu cầu Cơ quan điều tra chấp hành quy định Điều 179 thì vi phạm Điều 183 Bộ luật TTHS năm 2015, tương tự ngược lại chấp hành Điều 183, thì vi phạm Điều 60 và Điều 179 của Bộ luật TTHS.
Từ những vướng mắc nêu trên, cá nhân tôi đề xuất liên ngành trung ương (Bộ Công an – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao) trước tiên có hướng dẫn cụ thể về thời điểm giao quyết định khởi tố bị can, quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, lần đầu hỏi cung bị can để giúp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không vi phạm, quy định của pháp luật được tuân thủ; đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị khởi tố. Đến thời điểm thích hợp kiến nghị với Quốc hội sửa đổi nội dung của điều luật theo hướng hợp lý về thời gian và trình tự thủ tục, không ảnh hưởng đến tiến trình tố tụng, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị khởi tố.
Quá trình nghiên cứu, thể hiện quan điểm không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự bổ sung đóng góp của bạn đọc.
Đỗ Minh Tuấn - Phó Chánh Thanh tra Viện KSND thành phố Hà Nội