Mâu thuẫn trong việc Tạm đình chỉ thi hành án dân sự
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014 có hiệu lực từ 01/7/2015, đã khắc phục được nhiều bất cập, vướng mắc sau 06 năm thi hành Luật Thi hành án dân sự năm 2008. Tuy nhiên, để các quy định pháp luật về thi hành án dân sự nói chung, cũng như việc áp dụng các quy định tạm đình chỉ trong quá trình tổ chức thi hành án có hiệu quả, có căn cứ là hết sức cần thiết, nhằm bảo đảm quyền lợi của các bên đương sự.
Thực tế hiện nay cho thấy việc áp dụng Điều 49 Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung 2014) về Tạm đình chỉ thi hành án chưa thực sự có hiệu quả và theo đúng tinh thần của các quy định pháp luật. Theo đó có hai trường hợp tạm đình chỉ thi hành án: Thứ nhất là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự thông báo về việc tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được quyết định tạm đình chỉ thi hành án của người có quyền kháng nghị bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Thứ hai là Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án khi nhận được thông báo của Tòa án về việc đã thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án (trường hợp này ít xảy ra). Đối với trường hợp thứ nhất, từ Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (Điều 286, Điều 307) đến Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (Điều 332, Điều 354) đều quy định về việc người đã kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đó cho đến khi có quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Các quy định của pháp luật về tạm đình chỉ thi hành án như nêu trên cho thấy các nhà làm luật đã nhận thức rất rõ việc tạm dừng tổ chức thi hành bản án hoặc quyết định của Tòa án nhằm mục đích tránh phải giải quyết các hậu quả phát sinh nếu tiếp tục thi hành án, bảo đảm quyền lợi ban đầu của các bên trong vụ án. Tuy nhiên, quy định này lại bị phủ định bởi một số các quy định khác. Cụ thể:
Trước khi sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự năm 2008 thì tại khoản 3, Điều 4 Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 về Bán đấu giá tài sản quy định: “Trong trường hợp có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc sửa đổi một phần hoặc hủy bỏ toàn bộ các quyết định liên quan đến tài sản bán đấu giá do có vi phạm pháp luật trước khi tài sản được đưa ra bán đấu giá nhưng trình tự, thủ tục bán đấu giá tài sản đó bảo đảm tuân theo đầy đủ quy định của pháp luật thì tài sản đó vẫn thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của người mua được tài sản bán đấu giá”. Tại Khoản 5 Điều 2 Thông tư liên tịch số14/ 2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 26/7/2010 Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự quy định như sau: “Trường hợp bản án, quyết định bị kháng nghị đã được tổ chức thi hành một phần thông qua bán đấu giá nay bị huỷ, sửa thì cơ quan thi hành án tiếp tục hoàn thiện thủ tục theo quy định của pháp luật cho bên mua đấu giá, trừ trường hợp thủ tục bán đấu giá vi phạm quy định của pháp luật”.
Cho đến nay các quy định trên đã được đưa vào Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014), cụ thể: tại Điều 103 về Bảo vệ quyền của người mua tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án: “Trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục giao tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết quả bán đấu giá bị hủy theo quy định của pháp luật hoặc đương sự có thỏa thuận khác”.
Như vậy, trong những trường hợp Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyết định tạm đình chỉ việc thi hành án, thì Cơ quan thi hành án dân sự vẫn có thể tiếp tục thi hành, cụ thể là tiếp tục giao tài sản cho người trúng đấu giá (theo đúng quy định pháp luật).
Trên thực tế khi xảy ra trường hợp trên thì thường có hai ý kiến: Một là ủng hộ tiếp tục việc giao tài sản cho người trúng đấu giá, hai là tạm đình chỉ thi hành toàn bộ quyết định thi hành án. Chính vì vậy việc thi hành án sẽ bị các bên đương sự cũng như người trúng đấu giá khiếu kiện kéo dài vì ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của các bên. Nhất là người trúng đấu giá, khi không được giao tài sản khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trong Hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá, ảnh hưởng rất nhiều đến quyền lợi của họ. Nếu thuận lợi, thỏa thuận được thì có thể hủy hợp đồng mua bán tài sản để được trả lại tiền (mặc dù họ có quyền đơn phương hủy hợp đồng), nếu không thì số tiền của họ mua tài sản bán đấu giá sẽ vẫn nằm trong tài khoản của Cơ quan thi hành án dân sự cho đến khi có quyết định của Cơ quan có thẩm quyền.
Như vậy, với những quy định pháp luật như đã nêu trên thực sự gây khó khăn cho việc tổ chức thi hành án trên thực tế mà các cơ quan hữu quan vẫn chưa thống nhất được phương án giải quyết. Việc quy định chặt chẽ hơn đối với quy định về tạm đình chỉ thi hành án dân sự là cần thiết, nhằm giải quyết những vướng mắc cho các cơ quan áp dụng pháp luật.
Nguyễn Thị Kiều Diễm - Viện KSND huyện Thanh Oai.