Một số khó khăn, vướng mắc về nhận thức pháp luật trong các tranh chấp Kinh doanh thương mại liên quan đến hợp đồng tín dụng
Thành phố Hà Nội là thành phố trực thuộc trung ương, đồng thời là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả nước. Nơi đây có mật độ dân cư cao, có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế. Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có vốn hoạt động sản xuất kinh doanh thì các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội cũng thực hiện nghiệp vụ cho vay vốn tín dụng lớn. Tuy nhiên, còn không ít doanh nghiệp cũng như người sử dụng vốn vay không tuân thủ đúng quy định cũng như thỏa thuận của các bên trong hợp đồng dẫn đến phát sinh tranh chấp.
Thời gian vừa qua số lượng các vụ án tranh chấp Kinh doanh thương mại liên quan đến hợp đồng tín dụng trong loại án KDTM trên địa bàn thành phố Hà Nội tăng lên về số lượng và cả tính chất ngày càng phức tạp.
Nguyên nhân về phía người vay tín dụng và người có tài sản bảo đảm khoản vay. Sau khi giải ngân, khách hàng không thanh toán nợ theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Người có tài sản bảo đảm không muốn bị phát mại tài sản nên gây khó khăn không cho tổ chức tín dụng phát mại tài sản. Họ viện ra tài sản chỉ là đứng tên hộ, hay là tài sản chung, tài sản thừa kế chưa chia. Không phối hợp với cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các hoạt động tố tụng chung; chống đối, cản trở các hoạt động tố tụng như thẩm định tài sản thế chấp, lấy lời khai, xác minh thu thập chứng cứ của Tòa án.
Một mặt khác thời gian vừa qua, có nhiều người cần vay tiền nhưng không biết tiếp cận với các Tổ chức tín dụng mà phải nhờ người khác vay hộ. Tuy nhiên, họ lại quá tin người, thiếu hiểu biết nên đã ủy quyền cho các cá nhân, công ty khác được đại diện mình thực hiện việc thế chấp, thậm chí mua bán chuyển nhượng tài sản nhà đất của mình để vay tiền hộ từ tổ chức tín dụng. Nhưng người được ủy quyền đã vay một số tiền kèm theo rất lớn hoặc ký hợp đồng mua bán chuyển nhượng sang tên chủ sử dụng nhà đất mà người có tài sản thế chấp không hề hay biết. Đến khi tổ chức tín dụng khởi kiện mới biết thì quyền lợi đã bị thiệt hại nên đổ lỗi cho tổ chức tín dụng cấu kết với các công ty này lừa đảo người vay và người có tài sản bảo đảm.
Về phía tổ chức tín dụng: Hoạt động thẩm định cho vay nhiều lúc còn chưa đảm bảo, việc xác định thẩm quyền người ký hợp đồng tín dụng của bên vay là pháp nhân vẫn còn chưa đảm bảo. Nhất là những pháp nhân, tổ chức có nhiều người đại diện theo pháp luật; số lượng vốn vay lớn so với số vốn pháp định, vốn điều lệ mà theo quy định của Điều lệ của bên vay thì cần phải có biên bản họp thể hiện sự nhất trí của Hội đồng quản trị… Tổ chức tín dụng thiếu sát sao quản lý sau cho vay tín dụng, không sớm thực hiện các biện pháp thu hồi nợ. Hoạt động thẩm định, định giá tài sản thế chấp đôi lúc còn chưa chặt chẽ, chỉ làm theo tính ước lệ thủ tục.
- Những nguyên nhân khác: Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đang thế chấp thì bị thu hồi giải phóng mặt bằng thực hiện cho những dự án vì mục đích an ninh quốc phòng; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Hay những tài sản khác mà tổ chức tín dụng chấp nhận thế chấp bị xảy ra tai nạn thiệt hại đa phần tài sản không có khả năng thu hồi nợ do lỗi của người có tài sản thế chấp như chủ xe ô tô thế chấp xảy ra tai nạn sau khi sử dụng rượu bia nên không thuộc trường hợp được bồi thường theo các hợp đồng bảo hiểm… hay các sự kiện bất khả kháng khác.
Hiện nay tranh chấp liên quan đến hợp đồng tín dụng phổ biến là tranh chấp liên quan đến mức lãi, cách tính lãi và tranh chấp liên quan đến tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, ngoài ra một số ít liên quan đến tài sản thế chấp khác là quyền đòi nợ, hàng hóa tồn kho, tài sản hình thành trong tương lai hay là tài sản hình thành từ vốn vay.
1. Tranh chấp liên quan đến mức lãi và cách tính lãi
+ Lãi suất được áp dụng trong hợp đồng tín dụng có thể thỏa thuận là lãi suất cố định hoặc lãi suất thay đổi. Nếu các bên thoả thuận áp dụng lãi suất cố định, thì lãi suất sẽ không thay đổi trong suốt thời hạn vay. Nếu các bên thoả thuận trong hợp đồng tín dụng là áp dụng lãi suất thay đổi thì sẽ điều chỉnh lãi suất lên, xuống dựa vào lãi suất thị trường, theo đó các Ngân hàng phải xuất trình các quyết định tăng giảm lãi suất theo từng thời kỳ làm căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng xem xét về lãi suất tính đúng hay sai.
Có tổ chức tín dụng cho rằng khi bên vay đã bị chuyển sang nợ quá hạn, thì không chỉnh lãi. Quan điểm này của Ngân hàng không đúng với thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng dẫn đến một số Bản án của TAND đã tuyên chỉ chấp nhận nợ gốc, đối với số tiền lãi sẽ tách ra trong một vụ án khác khi Ngân hàng có đầy đủ các tài liệu điều chỉnh lãi suất để Tòa án làm cơ sở cho việc tính lãi. Tuy nhiên giải quyết vấn đề này hiện nay còn nhiều quan điểm khác nhau. TAND cấp cao đã hủy 01 bản án phúc thẩm có nội dung hủy phần tách lãi suất ra để giải quyết bằng vụ án khác. Lập luận cho rằng đương sự có nghĩa vụ cung cấp tài liệu chứng cứ, nếu không cung cấp bảng tính lãi và các quyết định điều chỉnh lãi theo các thời kỳ thì căn cứ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước tính lãi hợp đồng trên mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng nước quy định. Như vậy cần có một hướng dẫn của TAND và VKSND Tối cao thống nhất quan điểm giải quyết đối với lãi trong hợp đồng tín dụng khi các tổ chức tín dụng không điều chỉnh lãi và không cung cấp các tài liệu mà TAND yêu cầu.
+ Lãi suất quá hạn: hầu hết các Ngân hàng vẫn thoả thuận trong hợp đồng tín dụng về lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn đối với chính hợp đồng tín dụng đó. Hiện nay, vẫn còn có đơn khởi kiện của một số Ngân hàng đề nghị Tòa án chấp nhận cho Ngân hàng nhập lãi vào gốc và tính cả lãi trên số lãi (lãi chồng lãi), yêu cầu này của Ngân hàng đối với các tranh chấp hợp đồng tín dụng ký trước ngày 01/01/2017 là không đúng.
+ Phạt vi phạm và lãi chậm trả: vẫn còn nhiều vụ án bị hủy phần phạt đối với lãi chậm trả. Tổ chức tín dụng cho rằng họ có quyền thỏa thuận với khách hàng về phạt vi phạm phù hợp với các quy định của pháp luật về tín dụng. Tòa án do quan điểm nhận thức pháp luật khác nhau hoặc không để ý đến khoản tiền phạt này vì cho rằng các tổ chức tín dụng đã có công thức tính những khoản tiền này và khách hàng không có thắc mắc gì nên vẫn chấp nhận phạt vi phạm. Hiện nay, chưa có quy định nào cho phép phạt nhiều lần về cùng vi phạm trong hợp đồng tín dụng. Tại khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm đã quy định rõ: “Hợp đồng vay tài sản có thỏa thuận xử lý đối với hành vi không trả nợ đúng hạn của bên vay thì Tòa án xem xét, quyết định theo nguyên tắc chỉ xử lý một lần đối với mỗi hành vi không trả nợ đúng hạn”. Do vậy, trong các hợp đồng tín dụng các bên đã thỏa thuận về lãi suất quá hạn (bằng 150% lãi suất vay trong hạn) nhưng lại còn thỏa thuận về lãi phạt chậm trả đối với số tiền lãi quá hạn chưa thanh toán là không đúng.
Đối với hợp đồng tín dụng được ký kết từ ngày 01/01/2017 (ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực thi hành), phần lãi chậm trả tính trên số dư lãi chậm trả trong hạn phù hợp với điểm a, khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015 và được quy định cụ thể tại điểm b khoản 4 Điều 13 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng và quy định tại điểm b khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP.
2. Tranh chấp liên quan đến tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
Tranh chấp liên quan đến tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất là một tranh chấp phổ biến trong tranh chấp hợp đồng tín dụng và cũng là tranh chấp rất phức tạp. Bản án, quyết định hay bị sửa, hủy do việc thu thập chứng cứ, xác minh về tài sản thế chấp chưa đầy đủ về nguồn gốc tài sản trước khi thế chấp, hiện trạng tài sản khi thế chấp cũng như sự thay đổi nếu có sau khi ký hợp đồng thế chấp, nhất là đối với bất động sản.
- Một số tổ chức tín dụng khi thẩm định tài sản thế chấp để đảm bảo cho khoản vay không đến trực tiếp nơi có tài sản để kiểm tra hiện trạng mà chỉ căn cứ trên Giấy CNQSD đất. Thực tế chủ sử dụng đất đã chuyển nhượng lại cho người khác nhưng chưa làm thủ tục tách sổ mà chỉ là hợp đồng mua bán viết tay, có trường hợp đã được chính quyền địa phương xác nhận hoặc đã công chứng hợp đồng chuyển nhượng. Sau khi nhận chuyển nhượng, người nhận chuyển nhượng chưa được cấp Giấy CNQSD đất nhưng các hộ gia đình đã làm nhà sinh sống ổn định trên diện tích đất đó. Chủ sử dụng đất cũ vẫn có Giấy CNQSD đất mang đi thế chấp để vay tiền ngân hàng hoặc đảm bảo khoản vay cho cá nhân, pháp nhân khác. Khi có tranh chấp xảy ra, các hộ gia đình nhận chuyển nhượng QSD đất nhưng chưa được cấp Giấy CNQSD đất mới xuất trình các giấy tờ chuyển nhượng viết tay hoặc có xác nhận của chính quyền địa phương. Do đó, rất khó khăn cho việc giải quyết vụ án cũng như thi hành án và để đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.
Vì vậy, các trường hợp tài sản thế chấp là nhà đất khi xem xét thẩm định phải mời cơ quan đo đạc để xác định chính xác mốc giới, diện tích tài sản bảo đảm. Đồng thời phải xác minh chính xác, đầy đủ những người đang quản lý, sử dụng tài sản đã thế chấp để đưa họ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo đúng quy định.
- Đối với tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất mà được chính quyền cấp cho hộ gia đình thì khi giải quyết phải tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ để xác định rõ Giấy CNQSD đất đó được cấp cho hộ gia đình là gồm những ai. Khi giải quyết những vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng liên quan đến hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình phải căn cứ vào sổ hộ khẩu của gia đình tại thời điểm cấp và kết quả xác minh thu thập chứng cứ tại địa phương để xác định đầy đủ các thành viên trong gia đình theo đúng quy định của pháp luật đồng thời đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các đương sự.
- Một vi phạm nữa khi ký hợp đồng thế chấp dẫn đến hợp đồng vô hiệu đó là các bên không để ý đến việc những người tham gia ký kết hợp đồng có đủ hành vi dân sự hay không, có ai bị nhược điểm về thể chất hoặc tinh thần hay không, có sự cưỡng ép hay lừa dối gì khi tham gia giao kết hợp đồng hay không. Hợp đồng thế chấp phải được công chứng hoặc chứng thực, được đăng ký giao dịch có bảo đảm hay không. Không đảm bảo điều kiện về chủ thể ký kết và không chứng thực hợp đồng thế chấp trong những trường hợp pháp luật quy định hợp đồng không phát sinh hiệu lực do vi phạm điều cấm của pháp luật.
- Hiện nay có nhiều vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng, mà tài sản thế chấp là nhà đất, Giấy CNQSD đất thể hiện khác với thực tế tài sản trên đất có giá trị cao hơn nhiều được xây dựng từ trước hoặc sau khi cấp Giấy CNQSD đất. Khi xảy ra tranh chấp, đương sự mới xuất trình được Giấy CNQSD đất mang tên người khác (ví dụ như anh hoặc em trai, có trường hợp mang tên bố hoặc mẹ người đứng tên quyền sử dụng đất) và đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng thế chấp vô hiệu toàn bộ hoặc một phần nhà do nhà của bố, mẹ hoặc anh em trai xây dựng hoặc tài sản trên đất không phải của người có tên trên Giấy CNQSD đất. Thực tiễn đối với những vi phạm này khi giải quyết cần theo hai hướng:
+ Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản gắn liền với đất được xử lý đồng thời với quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm được thanh toán trước cho chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (áp dụng Điều 325 BLDS 2015).
+ Trong trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất thì áp dụng Điều 326 BLDS để giải quyết cho phù hợp. Ngoài ra, còn có trường hợp tổ chức tín dụng không xem xét kỹ tài sản đảm bảo khi nhận thế chấp đến khi giải quyết tranh chấp tại Tòa án hoặc thi hành án thì mới phát hiện ra mảnh đất to hoặc nhỏ hơn so với giấy CNQSD đất, nhiều trường hợp nhà đất xây lấn sang cả nhà hàng xóm hoặc đất công… như vậy sẽ rất khó khăn cho việc thi hành án. Đối với trường hợp này, để chặt chẽ các tổ chức tín dụng khi nhận tài sản thế chấp phải xem xét thẩm định thật kỹ, thậm chí trong một số trường hợp cần thiết phải thuê Công ty đo đạc vẽ và đo đạc lại đầy đủ nhà đất hiện trạng khi nhận tài sản thế chấp để đảm bảo thi hành án sau này. Khi giải quyết vụ án cần xác minh làm rõ phần diện tích đất tăng lên giảm đi để có cơ sở xác định phần diện tích khi thi hành án.
- Trường hợp khi giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng liên quan đến tài sản thế chấp là nhà đất, có nhiều vụ án đương sự xuất trình nhiều Hợp đồng mua bán nhà đất viết tay hoặc các giấy cho mượn hoặc thuê nhà đất để mang đi thế chấp hoặc có nhiều trường hợp đã sang tên giấy tờ nhà đất nhưng trên thực tế chủ cũ vẫn đang sinh sống trên đất đó. Khi giải quyết vụ án phải áp dụng Công văn số 02/TATC ngày 02/8/2021 của TAND tối cao hướng dẫn là khi ký hợp đồng thế chấp mà Ngân hàng không xem xét thẩm định kỹ tài sản thế chấp, chỉ xem xét trên giấy tờ và không xác định được rõ ràng người đứng tên tài sản nhà đất thế chấp không phải là chủ sở hữu thực sự đang quản lý, sử dụng tài sản trên và không có tài liệu, chứng cứ chứng minh chủ sở hữu thực sự biết và nhất trí cho việc thế chấp tài sản để bảo đảm cho khoản vay của Ngân hàng, thì trong trường hợp này Ngân hàng không phải là bên thứ ba ngay tình theo quy định tại khoản 2 Điều 133 BLDS năm 2015 và hướng dẫn tại mục 1 Phần II Công văn số 64/TATC, xác định HĐTC trên là vô hiệu.
Dù là một loại án tranh chấp phổ biến nhưng hiện nay các quan điểm về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín tụng liên quan đến lãi suất và tài sản thế chấp vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau chưa thống nhất dẫn tới đường lối xét xử khác nhau. Trong thời gian tới cần có sự tổng hợp thống nhất hướng dẫn của TAND và VKSND Tối cao để thống nhất đường lối xét xử, đảm bảo quyền lợi của các đương sự.
Phan Thị Tình - Phòng 10