Điểm mới trong Bộ luật hình sự 2015 về Chế định hình phạt

Huỳnh Phương Linh

Lịch sử quy định hình phạt trong pháp luật hình sự của nước ta đến nay đã xây dựng và ban hành 03 (ba) Bộ luật hình sự là Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 2009 và Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016. Hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 2015 đã kế thừa những yếu tố tích cực của Bộ luật hình sự năm 2009 đồng thời bổ sung các quy định mới nhằm đáp ứng yêu cầu tất yếu của xã hội, góp phần giữ gìn an ninh trật tự. Trong phạm vi của bài viết này, chỉ đề cập đến một số quy định mới về hình phạt của Bộ luật hình sự năm 2015.

 Hình phạt được quy định tại Chương V, có 16 (mười sáu) điều, từ điều 30 đến điều 45. Nói chung quy định về hình phạt của Bộ luật hình sự năm 2015 không thay đổi nhiều; về cơ bản vẫn ghi nhận các quy định về hình phạt của Bộ luật hình sự năm 2009. Bên cạnh đó còn quy định mới cụ thể là:

1/ Về khái niệm về hình phạt: Điều 30 của BLHS năm 2015 quy định “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó“. Điều luật được xắp xếp, ghi nhận thành một đoạn mà không tách rời thành (02) hai đoạn như khái niệm về hình phạt Điều 26 của Bộ luật hình sự năm 2009 Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định. Hình phạt của BLHS năm 2015 ngoài việc áp dụng đối với người (cá nhân) phạm tội mà còn được áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Khái niệm về pháp nhân thương mại là một khái niệm mới, các văn bản đang có hiệu lực pháp luật thì đến nay chưa có văn bản nào quy định thế nào là pháp nhân thương mại nên sẽ dẫn đến tình trạng hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau không thống nhất.

Trong phạm vi bài viết này mạnh dạn phân tích làm rõ hơn về pháp nhân thương mại, giúp cho việc hiểu và áp dụng được thống nhất. Theo quy định tại Điều 75 Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 quy định về pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên; pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác; việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan. Như vậy là pháp nhân thương mại phải có đủ 05 (năm) điều kiện gồm:

+ Một là được thành lập hợp pháp khi được pháp luật cho phép hoặc thừa nhận thông qua các hình thức Cơ quan có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận thành lập, tham gia các quan hệ pháp luật và tồn tại dưới sự kiểm soát, đảm bảo của Nhà nước.

+ Hai là có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, tổ chức tập hợp nhiều người có cùng chung mục đích, lợi ích, được thành lập với những chức năng, nhiệm vụ cụ thể nhằm thực hiện một mục đích, phải có sự sắp xếp, phân bổ nhân lực, quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận.

+ Ba là có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó, thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa các thành viên và các thành viên chỉ phải chịu trách nhiệm trong phạm vi tài sản của mình đã góp (trừ trường hợp công ty hợp danh) vào pháp nhân.

+ Bốn là pháp nhân nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập, tự mình thực hiện các quyền và chịu nghĩa vụ khi tham gia các quan hệ dân sự, có một sự thống nhất về mặt ý chí trong việc sử dụng khối tài sản đó.

+ Năm là có mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên bao gồm doanh nghiệp và tổ chức kinh tế khác.

Đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của quy định mới về hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 2015 chỉ được áp dụng đối với pháp nhân thương mại có sai phạm gây nguy hiểm cho xã hội, còn các pháp nhân khác không có mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận mà có sai phạm gây nguy hiểm cho xã hội thì không thuộc đối tượng điều chỉnh về hình phạt của Bộ luật hình sự năm 2015. Như vậy, pháp nhân thương mại là một tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật, có cơ quan điều hành nhiệm vụ, quyền hạn theo điều lệ hoặc quyết định thành lập pháp nhân; có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một các độc lập; có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên mà có sai phạm gây nguy hiểm cho xã hội thì bị Tòa án quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích.

2/ Về mục đích của hình phạt: Điều 31 của BLHS năm 2015 quy định “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm".

- Cấu trúc của điều luật (Điều 30) là được xắp xếp, ghi nhận thành một đoạn, nhưng nội dung điều luật quy định khác với so với Điều 27 của Bộ luật hình sự năm 2009 là bỏ cụm từ: có ích cho xã hội; đồng thời nhằm mục đích trừng trị pháp nhân thương mại phạm tội, giáo dục pháp nhân thương mại phải có ý thức chấp pháp luật, tôn trọng và tuân theo quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa pháp nhân thương mại phạm tội mới.

 - Đối tượng bị áp dụng hình phạt của Bộ luật hình sự năm 2015, được quy định về hình phạt khác với quy định của Bộ luật hình sự năm 2009 về số lượng. Hình phạt của Bộ luật hình sự năm 2009 chỉ áp dụng hình phạt đối với người phạm tội (cá nhân), còn hình phạt của Bộ luật hình sự năm 2015 ngoài việc kế thừa quy định của Bộ luật hình sự năm 2009 về hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội mà còn quy định hình phạt được áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội.

3/ Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội: Điều 33 của BLHS quy định có hai loại hình phạt là:

- Hình phạt chính bao gồm: phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn. Theo quy định của pháp luật (Điều 33) thì hình phạt chính được Tòa án quyết định áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội là 03 (ba) loại hình phạt là: hình phạt được áp dụng bằng tiền có định lượng cụ thể; hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn là Tòa án ấn định đình chỉ hoạt động trong một thời gian nhất định; hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là Tòa án quyết định không cho hoạt động vô thời hạn. Với quy định như vậy, Tòa án không được quyết định áp dụng hình phạt chính cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình đối với pháp nhân thương mại phạm tội.

- Hình phạt bổ sung bao gồm: Có 04 (bốn) loại hình phạt bổ sung là hình phạt cấm kinh doanh, hình phạt cấm hoạt động trong một lĩnh vực nhất định, hình phạt cấm huy động vốn và hình phạt tiền nếu không bị áp dụng là hình phạt chính. Theo quy định mới thì Tòa án được quyết định áp dụng hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội là không cho kinh doanh toàn bộ các loại hình mà pháp nhân thương mại đã đăng ký kinh doanh với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; hạn chế lĩnh vực hoạt động, cấm không cho pháp nhân thương mại hoạt động ở một lĩnh vực cụ thể mà pháp nhân thương mại đăng ký hoạt động với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; không cho huy động vốn dưới bất kỳ hình thức nào nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận; phạt tiền chỉ được áp dụng khi không bị Tòa án quyết định áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính. Như vậy, pháp luật quy định Tòa án không được áp dụng các hình phạt như: cấm đi khỏi nơi cư trú, quản chế, tước một phần quyền công dân, tịch thu tài sản, trục xuất đối với pháp nhân thương mại khi phạm tội.

4/ Về hình phạt tù có thời hạn: Điều 38 của BLHS năm 2015, khoản 1 quy định: Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định; tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm; thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù. Khoản 2 quy định: Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng.

Cấu tạo của điều luật về hình phạt tù có thời hạn trong Bộ luật hình sự năm 2015 (Điều 38) khác với cấu tạo về hình phạt tù có thời hạn của Bộ luật hình sự năm 2009. Tù có thời hạn (Điều 33) của Bộ luật hình sự năm 2009, không quy định riêng thành từng khoản mà quy định thành 02 (hai) đoạn. Tù có thời hạn (Điều 38) của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định thành 02 (hai) khoản và quy định một điểm mới tại khoản 2 của điều luật: Không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng. Điều luật quy định Tòa án không được áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người phạm tội khi có đủ 04 (bốn) điều kiện sau:

+ Điều kiện thứ nhất là phạm tội lần đầu tức một lần thực hiện hành vi phạm tội, lần phạm tội là lần đầu tiên, trước đó chưa lần nào bị kết án;

+ Điều kiện thứ hai là phạm tội ít nghiêm trọng, tức là phạm tội có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù;

+ Điều kiện thứ ba là phạm tội do vô ý, nghĩa là người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng hậu quả vẫn xảy ra. Hoặc người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả  nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Như vậy yếu tố lỗi là vô ý do quá cẩu thả hoặc do quá tự tin rằng hậu quả không thể xảy ra, việc hậu quả xảy ra là ngoài ý muốn của người phạm tội.

+ Điều kiện thứ tư là có nơi cư trú rõ ràng là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, có địa chỉ cụ thể và đăng ký thường trú với cơ quan quản lý Nhà nước.

5/ Về hình phạt tử hình: Điều 40 của BLHS năm 2015, khoản 1 quy định: Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định. Khoản 2 quy định: Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử. Khoản 3 quy định: Không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi; Người đủ 75 tuổi trở lên; Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Khoản 4 quy định: Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này hoặc trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân.

  Cấu tạo của điều luật (Điều 40) về hình phạt tử hình của Bộ luật hình sự năm 2015 khác với cấu tạo của Điều luật về hình phạt tử hình (Điều 35) của Bộ luật hình sự năm 2009. Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2009, không có các khoản mà được chia thành 04 (bốn) đoạn. Điều 40 của Bộ luật hình sự năm 2015 được phân chia thành 04 (bốn) khoản và quy định 04 (bốn) mới điểm là:

- Điểm mới thứ nhất: Khoản 1 quy định hình phạt tử hình chỉ được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội xâm phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do bộ luật này quy định. Như vậy, điều luật quy định Tòa án chỉ được áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội nhưng phải có đủ 02 (hai) điều kiện như sau:

+ Điều kiện thứ nhất là phải phạm tội đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

+ Điều kiện thứ hai phải thuộc một trong các nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội xâm phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.

- Điểm mới thứ hai: Khoản 2 quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử. Như vậy, điều luật quy định 02 (hai) trường hợp Tòa án không được quyết định áp dụng hình phạt tử hình, cụ thể là:

+ Trường hợp thứ nhất là người đã đủ 75 (bảy mươi năm) tuổi trở lên thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội xâm phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định thì Tòa án không được quyết định áp dụng hình phạt tử hình đối với họ.

+ Trường hợp thứ hai là khi xét xử người thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong các nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội xâm phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định, đã đủ 75 (bảy mươi năm) tuổi trở lên thì Tòa án không được quyết định áp dụng hình phạt tử hình đối với họ.

- Điểm mới thứ ba: Khoản 3 quy định không thi hành án tử hình đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên tức là người bị Tòa án kết tội và quyết định áp dụng hình phạt tử hình bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng đến thời điểm thi hành bản án tử hình thì người bị kết án tử hình đủ 75 (bảy mươi năm) tuổi trở lên thì không bị thi hành án tử hình mà được chuyển thành tù chung thân.

- Điểm mới thứ tư: Khoản 3 quy định người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn. Điều luật quy định trường người bị kết án tử hình không bị thi hành án tử hình phải có đủ 03 (ba) điều kiện là:

+ Điều kiện thứ nhất là phải bị kết án tử hình về một trong hai tội là tội tham ô tài sản hoặc tội nhận hối lộ.

+ Điều kiện thứ hai là sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ đồng thời phải hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm nghĩa là có hành động cụ thể giúp Cơ quan điều tra phát hiện ra những chứng cứ quan trọng, đồng phạm khác, vụ án được rút ngắn thời gian điều tra xử lý.

+ Điều kiện thứ ba là sau khi bị kết án đã lập công lớn nghĩa là đã có hành động giúp cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc đã cứu được tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân trong thiên tai, hỏa hoạn; có những phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị hoặc thành tích xuất sắc đột xuất khác được các cơ quan có thẩm quyền xác nhận.

Bài viết đã chủ ý đánh giá, phân tích làm rõ hơn các quy định mới về chế định hình phạt của Bộ luật hình sự năm 2015 nhưng không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế. Rất mong được sự bổ sung đóng góp của các bạn.

Đỗ Minh Tuấn - Phó Chánh Thanh tra Viên KSND thành phố

Bài viết trước Có bất cập khi áp dụng quy định này của Bộ luật hình sự năm 2015 vào thực tiễn?
Bài viết tiếp theo Điểm mới về nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
In
1479 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều