Có bất cập khi áp dụng quy định này của Bộ luật hình sự năm 2015 vào thực tiễn?

Huỳnh Phương Linh

Qua nghiên cứu Bộ luật hình sự năm 2015 (BLHS 2015) tôi thấy có một số bất cập khi áp dụng vào thực tiễn như sau:

1. Chế định xóa án tích đối với người dưới 18 tuổi( từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi) trường hợp bất lợi hơn so với người thành niên, cần được áp dụng như thế nào.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 70 BLHS năm 2015, về đương nhiên được xóa án tích:

2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;

b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;

c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;

…”

Đây là quy định chung về thời hạn xóa án tích, thường được hiểu là quy định đối với người thành niên phạm tội. Theo quy định tại khoản b, c Điều này thì người thành niên từ khi chấp hành xong hình phạt chính (đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án) đương nhiên được xóa án tích sau 02 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm và 03 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 05 năm đến 15 năm bất kể người đó bị xét xử về theo khoản nào của tội danh, có thể là loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng (được xử dưới khung hình phạt).

Nhưng theo quy định tại khoản 2 Điều 107 BLHS 2015, quy định về xóa án tích đối với người dưới 18 tưởi, từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi (trong bài này gọi tắt là người CTN) bị kết án thì:

 “2. Người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì đương nhiên xoá án tích nếu trong thời hạn 03 năm tính từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới.

Theo quy định Điều khoản này, thời hạn để người chưa thành niên niên từ khi chấp hành xong hình phạt chính, đương nhiên được xóa án tích là 03 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng (mức cao nhất của khung hình phạt từ trên 07 năm đến 15 năm tù) hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (trên 15 năm đến 18 năm tù). Nghĩa là thời hạn để tính xóa án tính đối với người CTN trong các trường hợp này được căn cứ theo mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt đó,  kể cả trường hợp người đó được Tòa án xử mức án phạt tù dưới khung.

Tôi thấy, nếu áp dụng Điều 107 BLHS 2015 để tính thời hạn xóa án tích cho người CTN phạm tội thì có thể xảy ra trường hợp: Người CTN và người thành niên có mức án phạt tù bằng nhau, thậm chí người CTN có mức án phạt tù thấp hơn so với người thành niên nhưng thời hạn xóa án tích so với người thành niên bất lợi hơn. Như vậy không đảm bảo đường lối, chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta trong việc xử lý hình sự đối với người CTN nhẹ hơn so với người thành niên. Tôi xin nêu ra 02 ví dụ để minh họa:

Ví dụ 1: Nguyến Văn A (19 tuổi) và Phạm xuân B (17 tuổi) đều bị Tòa án xét xử về tội Cướp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 168 BLHS 2015 và đều bị xử phạt mức án 05 năm tù.

Ví dụ 2: Trần Thị C (19 tuổi) và Nguyễn Tuấn D (17 tuổi) đều bị Tòa án xét xử về tội Trộm cắp tài sản theo quy định điểm a khoản 3 Điều 173 BLHS 2015 (khung hình phạt từ 07 năm đến 15 năm tù) và đều được xử dưới khung hình phạt. Trong đó Trần Thị C bị xử  04 năm tù, Nguyễn Tuấn D bị xử phạt 03 năm tù.

Trong hai ví dụ trên, đối với những người thành niên là Nguyễn Văn A có tiền án 05 năm tù, và Trần Thị C có tiền án 04 năm tù, thời hạn xóa án tích là 02 năm (điểm b khoản 2 Điều 70 BLHS). Trong khi đó những người CTN là Phạm Xuân B có tiền án 05 năm tù và Nguyễn Tuấn D có tiền án 03 năm tù (03 năm tù là mức án trong khung hình phạt loại tội ít nghiêm trọng) thì thời hạn xóa án tích là 03 năm (khoản 2 Điều 107 BLHS 2015).

Có thể có hai quan điểm về vấn đề này như sau:

Thư nhất: Ý kiến cho rằng, trong trường hợp Điều luật quy định đối với người CTN bất lợi hơn những quy định tại Điều luật quy định chung thì cần áp dụng Điều luật quy định chung (có lợi hơn) đối với họ. Bởi lẽ, Điều luật quy định chung là Điều luật quy định đối với tất cả mọi người (cả thành niên và chưa thành niên), có như vậy mới đảm bảo việc xử lý hình sự đối với người CTN phải nhẹ hơn, chí ít là bằng so với người thành niên.

Thứ hai: Ý kiến cho rằng, vì BLHS 2015 đã có Chương XII “Những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội” với các điều khoản rất quy định rất cụ thể rồi, hơn nữa Bộ luật cũng không có điều khoản nào quy định phải áp dụng Điều khoản nhẹ hơn đối với người CTN phạm tội, nên cứ áp dụng những điều khoản trong chương XII này đối với người CTN phạm tội là được.

Trong thực tiễn, người tiến hành tố tụng thường “bê” nguyên các Điều khoản trong chương quy định đối với người CTN phạm tội để xử lý đối với người CTN phạm tội chứ ít so sánh quy định nặng, nhẹ giữa các Điều luật.

Để tránh việc nhận thức, áp dụng không thống nhất những quy định của BLHS 2015 về xóa án tích đối với người CTN phạm tội. Nhất là thời điểm sau ngày 01/7/2016 (ngày BLHS 2015 có hiệu lực thi hành), khi giải quyết các vụ án xảy ra trước ngày 01/7/2016, người tiến hành tố tụng đang phải “oằn mình” so sánh quy định “nặng, nhẹ” giữa 02 BLHS năm 1999 và BLHS 2015 để thực hiện Nghị quyết số 109 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự 2015 để xác định xóa án tích đối với người CTN từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi như nêu trên, thì khó khăn càng lớn.

Vì vậy, tôi đề nghị Ban biên tập Website Viện kiểm sát NDTP Hà Nội có kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Theo tôi,  cần hướng dẫn theo hướng: áp dụng Điều luật nào của BLHS 2015 quy định có lợi hơn trong việc tính thời hạn xóa án tích đối với người CTN phạm tội.

Để tiện đường tranh luận, tôi xin nêu một ví dụ để bạn đọc cùng trao đổi:

Ví dụ: Ngày 20/01/2010, Lê Văn Q (17 tuổi) cướp 01 xe máy trị giá 10 triệu đồng thì bị bắt quả tang. Ngày 17/7/2010, Tòa án xét xử Lê Văn Q về tội Cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133 BLHS 2009, tuyên phạt 04 năm tù. Ngày 20/01/2014, Lê Văn Q chấp hành xong hình phạt 04 năm tù và đã chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án. Đến ngày 25/4/2016, Lê Văn Q trộm cắp 01 xe đạp trị giá 1.000.000 đồng. Ngày 15/7/2016 Q bị Cơ quan điều tra phát hiện hành vi trộm cắp xe đạp ngày 25/4/2016.

Hỏi: Hành vi trộm cắp xe đạp trị giá 1.000.000 đồng ngày 25/4/2016 của Lê Văn Q có cấu thành tội Trộm cắp tài sản không.

Cá nhân tôi, như đã nêu ý kiến giải quyết ở trên, trường hợp này hành vi trộm cắp tài sản trị giá 1.000.000 đồng ngày 25/4/2016 của Lê Văn Q không cấu thành tội Trộm cắp tài sản (theo quy định Điều 138 BLHS 2009 hoặc Điều 173 BLHS 2015).

          2. Cần đính chính nội dung Điều 389 BLHS năm 2015:

          Qua tra cứu Điều 389 Bộ luật hình sự năm 2015 do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành tháng 12 năm 2015, tôi thấy nội dung điều luật có sai sót, nhưng không có bản đính chính kèm theo. Do đó cần kiến nghị để khắc phục như sau:

 “Điều 389. Tội che giấu tội phạm

1. Người nào không hứa hẹn trước mà che giấu một trong các tội phạm quy định tại các điều sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 18 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm:

g) Điều 265, các khoản 2, 3 và 4 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 282 (tội chiếm đoạt tàu bay, tàu thuỷ); Điều 299 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự); Điều 299 (tội khủng bố); Điều 301 (tội bắt cóc con tin); Điều 302 (tội cướp biển); Điều 303 (tội phá huỷ công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự); Điều 305, các khoản 2, 3 và 4 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ); Điều 309, các khoản 2, 3 và 4 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, phát tán, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất phóng xạ, vật liệu hạt nhân); Điều 311, các khoản 2, 3 và 4 (tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng hoặc mua bán trái phép chất cháy, chất độc);”

Như vậy Điều 389 BLHS năm 2015 đã liệt kê thừa một Điều 299 với tên điều luật sai.

Chúng ta đều biết, trong quá trình biên soạn, in ấn phát hành một văn bản, việc để xảy ra sai sót, nhầm lẫn là bình thường. Nhưng điều cần nói ở đây là Điều 389 BLHS 2015 là Điều luật liệt kê cụ thể các tội phạm, theo đó người nào (đủ năng lực trách nhiệm hình sự) nếu có hành vi che dấu hoặc có hành vi không tố giác tội phạm (Điều 390 dẫn chiếu đến Điều 389) thì bị coi là phạm tội. Do đó có thể xảy ra 02 trường hợp, thứ nhất là do người biên soạn liệt kê thừa một Điều 299 với tên điều luật sai như nêu trên thì chỉ ảnh hưởng đến tính chính xác của Bộ luật nhưng không ảnh hưởng đến nội dung Điều luật này. Trường hợp thứ hai, nếu người biên soạn BLHS 2015 do nhầm lẫn đã liệt kê Điều 299 thay cho một tội khác cần liệt kê sẽ dẫn đến bỏ lọt tội của Điều luật cần được liệt kê trong Điều 389 BLHS 2015.

Qua tham thảo Bộ luật hình sự 2015 đăng tải trên mạng máy tính và Bộ luật hình sự do Nhà xuất bản Lao động phát hành năm 2016, tôi thấy cũng có sai sót như Bộ luật hình sự 2015 do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành. Do không có văn bản gốc là Bộ luật hình sự 2015 của Quốc hội nên không có căn cứ để đối chiếu, làm rõ thêm.

Để tránh xảy ra sai sót dẫn đến vi phạm trong việc áp dụng Điều 389 Bộ luật hình sự năm 2015, tôi đề nghị Ban biên tập Website Viện kiểm sát NDTP Hà nội có kiến nghị với Nhà xuất bản Chinh trị quốc gia để tra cứu với Bộ luật hình sự của Quốc hội, đính chính Bộ luật hình sự năm 2015 Nhà xuất bản đã phát hành.

          Trên đây là vài ý kiến cá nhân, kính mong bạn đọc cùng trao đổi ý kiến để nhận thức đầy đủ hơn về Bộ luật hình sự năm 2015./.

 

Trương Đức Long - Thanh tra VKSNDTP Hà Nội

 

Bài viết trước Điểm mới khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS tại phiên tòa hành chính sơ thẩm theo quy định của Luật TTHC 2015
Bài viết tiếp theo Điểm mới trong Bộ luật hình sự 2015 về Chế định hình phạt
In
2360 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều