Điểm mới khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS tại phiên tòa hành chính sơ thẩm theo quy định của Luật TTHC 2015

Huỳnh Phương Linh

Luật Tố tụng hành chính (TTHC) sửa đổi được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10 ngày 25/11/2015 và có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2016.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 22 Luật TTHC 2015: Viện kiểm sát có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp trong Tố tụng hành chính được thực hiện theo quy định tại Điều 25 theo đó Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hành chính nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật; hoạt động kiểm sát được thực hiện từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án; tham gia các phiên tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác thi hành bản án, quyết định của Tòa án; thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Tại gia đoạn xét xử sơ thẩm, chức năng kiểm sát được thực hiện theo các hoạt động tố tụng sau:

1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện: Sau khi người khởi kiện thực hiện quyền khởi kiện vụ án hành chính; thẩm phán được phân công giải quyết nhận đơn và xem xét đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 126, nếu xét thấy thuộc trường hợp trả lại đơn khởi kiện thì thẩm phán ra quyết định trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, văn bản trả lại đơn khởi kiện được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp (khoản 2 Điều 123). Trường hợp xét thấy việc trả lại đơn khởi kiện không có căn cứ, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện theo quy định tại Điều 124.

Điểm mới của  Luật TTHC 2015 về quy định giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện này so với Luật TTHC 2010 là: nếu Luật TTHC 2010 quy định trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị… chánh án tòa án phải ra một trong các quyết định tại Điều 110 Luật TTHC 2010; thì Luật TTHC 2015 quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 124: Ngay sau khi nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm phán xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị.

+ Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng cấp và người khởi kiện có khiếu nại. Trường hợp người khởi kiện, Kiểm sát viên vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp. Với quy định này, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, Kiểm sát viên được phân công phải có trách nhiệm tham gia phiên họp xem xét giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện của tòa án. Tránh trường hợp Tòa án phải hoãn buổi làm việc khi vắng mặt đương sự hoặc Kiểm sát viên dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ việc.

+  Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc trả lại đơn khởi kiện, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát và người khởi kiện có khiếu nại tại phiên họp, Thẩm phán phải ra một trong các quyết định: Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện và thông báo cho người khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp hoặc nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.

Người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị lần hai đến chánh án TAND cấp trên trực tiếp nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị lần một của TAND cùng cấp (Khoản 5, 6 Điều 124).

2. Kiểm sát việc thụ lý vụ án hành chính: sau khi thụ lý vụ án, Tòa án phải gửi thông báo thụ lý cho Viện kiếm sát cùng cấp trong thời hạn 3 ngày làm việc (Điều 126) để Viện kiểm sát thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại khoản 4 Điều 128 Luật TTHC 2015.

3. Kiểm sát hoạt động tố tụng tại giai đoạn chuẩn bị xét xử:

- Kiểm sát việc thu thập chứng cứ: được thực hiện theo các quy định tại chương VI Chứng minh và chứng cứ từ Điều 78 đến Điều 98 Luật TTHC 2015. Hoạt động kiểm sát được thực hiện theo nguyên tắc chứng cứ trong vụ án hành chính là những gì có thật được đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Luật này quy định mà Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp.

Viện kiểm sát chỉ có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp kháng nghị bản án hoặc quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì Viện kiểm sát có thể xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc kháng nghị (Khoản 6 Điều 84). Một trong những điểm mới về đánh giá chứng cứ của Luật TTHC 2015 so với Luật TTHC 2010:

+ Thứ nhất: theo các quy định của Luật TTHC 2015 thì trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án phải tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại giữa các đương sự với thành phần theo quy định tại Điều 137.

+ Thứ hai: Theo quy định tại khoản 2 Điều 97 trường hợp người làm chứng bị đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc để không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì Tòa án có quyền quyết định buộc người có hành vi đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc phải chấm dứt hành vi đe dọa, khống chế hoặc mua chuộc người làm chứng. Trường hợp hành vi đó có dấu hiệu tội phạm thì Luật TTHC 2015 quy định Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát xem xét về trách nhiệm hình sự. Nếu Luật TTHC 2010 quy định tại khoản 2 Điều 91 Cơ quan điều tra là cơ quan được Tòa án đề nghị xem xét giải quyết trách nhiệm hình sự trong trường hợp này thì Luật TTHC 2015 đã sửa đổi và quy định Viện kiếm sát là cơ quan được xem xét trách nhiệm hình sự khi có dấu hiệu hình sự vi phạm khoản 2 Điều 97. Quy định sửa đổi này là phù hợp với việc giải quyết vụ án khi Viện kiểm sát là cơ quan kiểm sát việc thực hiện các hoạt động tố tụng của Tòa án, các đương sự, đánh giá về nội dung vụ án ngay từ giai đoạn đầu tiên nên việc tiếp cận hồ sơ, xem xét việc có hay không có dấu hiệu vi phạm quy định của BLHS sẽ thuận lợi hơn so với cơ quan điều tra.

- Viện kiểm sát thực hiện quyền kiểm sát hoạt động tư pháp trong quá trình Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Chương V từ Điều 66 đến Điều 77 Luật TTHC 2015.

Trường hợp Tòa án nhận được đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 1, 2 Điều 66, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải xem xét, giải quyết. Trong thời hạn 48 giờ kể từ thời điểm nhận đơn yêu cầu, Thẩm phán phải ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; trường hợp không chấp nhận yêu cầu thì Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do cho người yêu cầu, Viện kiểm sát cùng cấp.

Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án có hiệu lực thi hành ngay. Tòa án phải cấp hoặc gửi ngay quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp và cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp (Điều 75)

Trường hợp không đồng ý với quyết định của tòa án, đương sự có quyền khiếu nại, viện kiểm sát có quyền kiến nghị việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 76.

-  Kiểm sát quyết định công nhận kết quả đối thoại thành; Quyết định đình chỉ; Quyết định tạm đình chỉ vụ án được thực hiện theo quy định từ Điều 134 đến Điều 145.

Trong đó lưu ý điểm mới về thủ tục đối thoại theo quy định của Luật TTHC 2015 là thủ tục bắt buộc trừ những trường hợp không phải đối thoại. Điều 20 Luật TTHC 2015 quy định Trách nhiệm của Tòa án là phải tiến hành đối thoại và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự đối thoại với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định.  Luật TTHC 2010 chỉ quy định tại Điều 12: tòa án trong quá trình giải quyết vụ án HC tạo điều kiện để các đương sự đối thoại về việc giải quyết vụ án (Điều 12)

Nguyên tắc đối thoại được quy định tại Điều 134 Luật TTHC 2015: Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án tiến hành đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không tiến hành đối thoại được, vụ án khiếu kiện về danh sách cử tri, vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn được quy định tại các Điều 135, 198 và 246 của Luật này. Việc đối thoại phải được tiến hành theo các nguyên tắc:

+ Bảo đảm công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của đương sự;

+ Không được ép buộc các đương sự thực hiện việc giải quyết vụ án hành chính trái với ý chí của họ;

+ Nội dung đối thoại, kết quả đối thoại thành giữa các đương sự không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.

- Hoạt động Kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm: được thực hiện theo quy định tại Chương XI Luật TTHC 2015. Luật TTHC 2015 đã có những quy định cụ thể, rõ ràng về các thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm, nhiệm vụ, quyền hạn của HĐXX, của các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự và những người tham gia tố tụng khác từ Điều 148 đến Điều 197.

+ Một trong những quy định mới của Luật TTHC 2015 được quy định tại Điều 156 về sự có mặt của Kiểm sát viên. Cả Luật TTHC 2010 và Luật TTHC 2015 đều quy định Viện kiểm sát tham gia tất cả các phiên tòa, phiên họp sơ thảm, phúc thẩm, giám đốc thẩm. Tuy nhiên nếu Luât TTHC 2010 quy định trường hợp KSV vắng mặt tại phiên tòa thì Tòa án phải hoãn phiên tòa (Điều 130 khoản 1); thì  tại Điều 156 Luật TTHC 2015 quy định: KSV được viện trưởng VKS cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì HĐXX vẫn tiến hành xét xử. Việc Luật TTHC 2015 quy định tòa án được quyền tiến hành xét xử nếu vắng mặt kiểm sát viên tại phiên tòa nhằm mục đích nâng cao trách nhiệm của viện kiểm sát khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình đồng thời đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời, tránh trường hợp các đương sự đã có mặt tại phiên tòa nhưng buộc phải hoãn vì KSV không tham dự phiên tòa.

Sau khi những người tham gia tố tụng tranh luận và đối đáp xong, theo quy định tại Điều 190 Luật TTHC 2015, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa hành chính sơ thẩm sẽ phát biểu ý kiến, quan điểm của Viện kiểm sát đối với hai vấn đề:

+ Thứ nhất, Kiểm sát viên phát biểu việc tuân theo pháp luật tố tụng của thẩm phán, HTND, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi vụ án được thụ lý đến trước thời điểm nghị án;

+ Thứ hai, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.

Văn bản phát biểu ý kiến của Kiếm sát viên phải được gửi ngay cho Tòa án sau khi kết thúc phiên tòa.

Đây là quy định mới được bổ sung cho Viện kiểm sát so với quy định Luật TTHC 2010. Điều 160 Luật TTHC 2010 Nếu trước đây, Kiểm sát viên tham gia  quy định phiên tòa chỉ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của thẩm phán, Hội đồng xét xử, của những người tham gia tố tụng hành chính thì Luật TTHC 2015 bổ sung quy định quyền của Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết nội dung vụ án hành chính sơ thẩm.

- Quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm của viện kiểm sát được thực hiện theo quy định tại Điều 211 đến Điều 214 Luật TTHC 2015.

Luật TTHC 2015 có hiệu lực từ ngày 1/7/2016, quá trình áp dụng Luật TTHC 2015, cơ quan tiến hành tố tụng cần nghiên cứu thực hiện các quy định tại Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính để việc áp dụng pháp luật theo đúng quy định.

 

Huyền Phương - Phòng 10

Bài viết trước Trao đổi về phát biểu của Kiểm sát viên theo Điều 262 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Bài viết tiếp theo Có bất cập khi áp dụng quy định này của Bộ luật hình sự năm 2015 vào thực tiễn?
In
3328 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều