Điểm mới về nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được xây dựng khoa học, tiếp thu những tiến bộ và rút kinh nghiệm thực tiễn áp dụng trong đời sống xã hội, luôn đảm bảo tính kế thừa và phát triển. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là công cụ pháp lý đấu tranh với tội phạm, giải quyết những vướng mắc bất cập trong cuộc sống; là một đạo luật quan trọng trong việc xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, bảo về công lý và phục vụ nhân dân. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp của Đảng ta; thể chế hóa Hiến pháp năm 2013; tăng cường trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; kế thừa và pháp huy những mặt tích cực của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.
Trong phạm vi của bài viết này, chỉ đề cập đến một số quy định mới về “Những nguyên tắc cơ bản,, của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để góp phần làm sáng tỏ hơn các quy định mới này. Những nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được quy định tại chương II, có 27 điều (từ Điều 7 đến Điều 33). So với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định mới 05 (năm) nguyên tắc cơ bản được đặt trong 05 (năm) điều luật, cụ thể là: Điều 11, công dân Việt Nam không bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác; Điều 13, suy đoán vô tội; Điều 14, không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm; Điều 26, tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; Điều 33, kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự.
1. Nguyên tắc công dân Việt Nam không bị trục xuất, giao nội cho cơ quan nhà nước khác
- Điều 11 Bộ luật TTHS năm 2015, quy định: “Mọi người có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân đều bị xử lý theo pháp luật. Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác”.
Cấu tạo của điều luật chia làm 03 (ba) đoạn, không có khoản; Quy định công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác, được xây dựng trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khoản 2, Điều 17 nêu “Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác”. Nguyên tắc này đã được cụ thể hóa, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam phải được bảo vệ mà Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận. Nội dung điều luật thể hiện 05 (năm) nội dung, cụ thể:
+ Một là: Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người;
+ Hai là: Quyền được bảo vệ tài sản;
+ Ba là: Xử lý những hành vi xâm phạm trái pháp luật về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân;
+ Bốn là: Xử lý những hành vi xâm phạm trái pháp luật về danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân;
+ Năm là: Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác.
Trong 05 (năm) nội dung của điều luật thì có 04 (bốn) nội dung (từ 01 đến 04) là kế thừa và phát huy tính tích cực của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, còn nội dung thứ năm là quy định mới được nhà làm luật thiết kế đặt ở phần cuối của điều luật (tại đoạn 3).
- Quy định mới “Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác”. Quy định mới này thể hiện quan điểm của Nhà nước trước trách nhiệm đối với công dân mang quốc tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nguyên tắc này của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được thực hiện trong phạm vi quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự và có hiệu lực đối với mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nội dung quy định mới này hàm chứa 02 (hai) trường hợp:
+ Một là công dân Việt Nam không thể bị trục xuất. Đây là quan điểm khẳng định rõ ràng, dứt khoát của chính sách Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm trước công dân mang quốc tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì không bị Tòa án quyết định áp dụng hình phạt trục xuất người phạm tội đó ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hình phạt trục xuất chỉ được áp dụng đối với người mang quốc tịch nước khác phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
+ Hai là công dân Việt Nam không thể bị giao nộp cho nhà nước khác. Quy định như vậy được hiểu là người mang quốc tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì không bị giao nộp cho nhà nước khác nếu nhà nước đó có yêu cầu. Tuy nhiên khái niệm giao nộp công dân Việt Nam cho nhà nước khác trong pháp luật hình sự chưa có quy định cụ thể.
Theo quan điểm của cá nhân tội thì việc giao nộp công dân Việt Nam cho nhà nước khác quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015 được áp dụng trong trường hợp người mang quốc tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phạm tội trên lãnh thổ nước khác, sau khi phạm tội đã về Việt Nam và giữa hai nước đã ký hiệp định tương trợ tư pháp.
- 2. Nguyên tắc suy đoán vô tội
- Điều 13 Bộ luật TTHS năm 2015, quy định: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Cấu tạo điều luật được thiết kế làm 02 (hai) đoạn, nội dung điều luật quy định 02 (hai) trường hợp được áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội là:
+ Trường hợp thứ nhất là người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Quy định như vậy được hiểu là người đã bị Tòa án buộc tội bằng một bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật, nhưng đã được cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) thu thập chứng cứ chứng minh người đó không thực hiện hành vi phạm tội và tài liệu chứng cứ chứng minh người đó không phạm tội phải được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
+ Trường hợp thứ hai là khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Như vậy, quy định này được áp dụng đối với 02 (hai) đối tượng là người đã bị cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố với là bị can, hoặc đã bị Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử với tư cách là bị cáo khi không có chứng cứ để xác định người đó thực hiện hành vi phạm tội thì người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận là họ không có tội; hoặc hành vi trái pháp luật của người đó không đủ cấu thành tội phạm.
- Nguyên tắc suy đoán vô tội là quy định mới được nhà làm luật đưa vào Bộ luật Tố tụng hình sự là quy định tiến bộ phù hợp với tình hình phát triển kinh tế và quyền con người ngày càng được chú trọng bảo vệ.
3. Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm
- Điều 14, Bộ luật TTHS năm 2015, quy định: “Không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm”. Cấu tạo của điều luật được thiết kế làm một đoạn, không chia làm các khoản; nội dung điều luật cấm Cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố họ với tư cách là bị can khi hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của họ đã bị kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật; cấm cơ quan điều tra tiến hành áp dụng các biện pháp điều tra đối với họ khi hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của họ đã bị kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật; cấm Viện kiểm sát quyết định truy tố họ ra trước Tòa án để xét xử khi hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của họ đã bị kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật; cấm Tòa án xét xử tuyên bố họ phạm tội khi hành vi gây nguy hiểm cho xã hội của họ đã bị kết tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật.
- Pháp luật quy định nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội đảm bảo chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta là một hành vi gây nguy hiểm hiểm cho xã hội thì chỉ bị xử lý một lần. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc này góp phần tích cực trong việc phòng chống oan sai, hạn chế việc cơ quan tiến hành tố tụng quy kết người không phạm tội; đồng thời kế thừa phát huy mặt tích cực của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định tại khoản 4 Điều 107, những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự: “Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án có hiệu lực pháp luật”.
4. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
- Điều 26, Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Phiên tòa xét xử vụ án hình sự phải có mặt đầy đủ những người theo quy định của Bộ luật này, trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.
Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”.
- Điều luật được cấu tạo làm 04 (bốn) đoạn, không phân chia làm các khoản; phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc này là chỉ được thực hiện khi Tòa án (Hội đồng xét xử) quyết định mở phiên tòa và việc tranh tụng được thực hiện tại phiên tòa dưới sự điều khiển của Hội đồng xét xử. Nguyên tắc tranh tụng trong trong xét xử được bảo đảm có 04 (bốn) nội dung, gồm:
+ Một là: Những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng (người bị buộc tội, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp, người làm chứng, người giám định) đều có quyền bình đẳng trước pháp luật trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan vụ án. Các quyền của những người tiến hành tố tụng và các quyền của những người tham gia tố tụng phải được Tòa án (Hội đồng xét xử) xem xét toàn diện, khách quan và được đánh trong mối liên hệ của các chứng cứ tài liệu khác, không thiên vị phân biệt; các yêu cầu của người tiến hành tố tụng và yêu cầu của người tham gia tố tụng phải được coi trọng như nhau và được xem xét thẩm định tại phiên tòa, kết luận của Hội đồng xét xử phải trên cơ sở các quy định của pháp luật.
+ Hai là: Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm tính hợp pháp về nội dung và hình thức của tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình tiến hành tố tụng đối với vụ án đã được đóng dấu bút lục thống kê đưa vào trong hồ sơ vụ án trước khi chuyển hồ sơ đến Tòa án để xét xử. Quy định những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phải có nghĩa vụ đến phiên tòa; trường hợp vắng mặt phải vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan hoặc trường hợp khác do Bộ luật này quy định; Tòa án (Hội đồng xét xử) phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tòa án.
+ Ba là: Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
+ Bốn là: Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa; phải trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và ý kiến của những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa để quyết định.
- Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm khi những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phải được bình đẳng trước pháp luật, khi đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan vụ án. Tòa án phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho việc tranh tụng và phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa để ra bản án, quyết định.
5. Nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự
- Điều 33, Bộ luật TTHS quy định:
1. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền; thực hiện kiểm soát giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
2. Cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Nếu phát hiện hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử có quyền yêu cầu, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ luật này. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định của pháp luật.
- Điều luật được nhà làm luật đặt ở Điều 33, thiết kế, cấu tạo điều luật thành 02 (hai) khoản, quy định về nguyên tắc kiểm tra và nguyên tắc giám sát:
+ Khoản 1, quy định về nguyên tắc kiểm tra, có 02 (hai) nội dung là:
Nội dung thứ nhất là cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra các hoạt động tố tụng thuộc phạm vi của mình để kịp thời phát hiện và phòng ngừa sai phạm;
Nội dung thứ hai là kiểm soát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, thi hành án của cơ quan có thẩm quyền.
+ Khoản 2, quy định về nguyên tắc giám sát, kiến nghị, có 03 (ba) chủ thể được quyền giám sát, kiến nghị gồm:
Cơ quan nhà nước, Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt động tố tụng và có quyền giám sát khiếu nại, tố cáo của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Quyền kiến nghị nếu trong quá trình thực hiện chức năng giám sát hoạt động tố tụng mà phát hiện hành vi trái pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì có quyền kiến nghị và cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị.
- Kiểm tra trong hoạt động tố tụng thuộc trách nhiệm của Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm quyền để ngăn ngừa và khắc phục khi có sai phạm; giám sát trong hoạt động tố tụng thuộc trách nhiệm của Cơ quan nhà nước, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử và có quyền kiến nghị nếu phát hiện vi phạm.
Quá trình nghiên cứu Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, có 05 (năm) quy định mới trong trong nguyên tắc cơ bản. Bài viết chủ ý phân tích làm rõ các quy định mới nhưng cũng không tránh khỏi hạn chế. Rất mong sự bổ sung đóng góp của các bạn.
Đỗ Minh Tuấn - Phó Chánh Thanh tra VKS thành phố