Chống người thi hành công vụ gây thương tích dưới 11% xử lý tội Chống người thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 257 BLHS hay tội Cố ý gây thương tích theo điểm k khoản 1 điều 104 BLHS
Qua thực tiễn công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án Chống người thi hành công vụ cho thấy có một số quan điểm không thống nhất về việc áp dụng điều luật để khởi tố điều tra, truy tố, xét xử đối với hành vi dùng vũ lực chống người thi hành công vụ gây hậu quả thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người thi hành công vụ với tỷ lệ dưới 11%, có quan điểm cho rằng áp dụng khoản 1 điều 257 BLHS đồng thời có quan điểm cho rằng áp dụng điểm k khoản 1 điều 104 BLHS để xử lý.
1. Về các quy định của BLHS và khó khăn vướng mắc trong áp dụng
- Khoản 1 điều 104 BLHS quy định:
Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác
"1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
...
k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân."
- Khoản 1 điều 257 BLHS quy định:
Điều 257. Tội chống người thi hành công vụ
“1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng thủ đoạn khác cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ của họ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Như vậy theo khoản 1 điều 257 BLHS người nào có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực cản trở người thi hành công vụ hoặc ép buộc họ thực hiện hành vi trái pháp luật thì có thể bị xử lý về tội Chống người thi hành công vụ. Cấu thành cơ bản của khoản 1 điều 257 BLHS không quy định người thực hiện hành vi phạm tội gây ra hậu quả thương tích cho người thi hành công vụ.
Đối với hành vi cố gây thương tích cho người khác mà hậu quả là tỷ lệ thương tích dưới 11%, tình tiết định tội trong khoản 1 điều 104 BLHS có liệt kê 10 tình tiết từ điểm a đến điểm k, trong đó điểm k là “k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”. Đây chính là lý do dẫn đến cách hiểu là, trong vụ án Chống người thi hành công vụ nếu người thi hành công vụ có thương tích mà tỷ lệ thương tích dưới 11% thì chuyển tội danh từ tội Chống người thi hành công vụ sang tội Cố ý gây thương tích. Vì tình tiết gây thương tích “Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” là tình tiết định tội được quy định tại điểm k khoản 1 điều 104 BLHS.
Về văn bản hướng dẫn pháp luật để tháo gỡ vướng mắc này, sau khi BLHS năm 1999 có hiệu lực chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào hướng dẫn xử lý đối với trường hợp Chống người thi hành công vụ gây hậu quả thương tích dưới 11% xử lý thì xử lý tội Chống người thi hành công vụ hay tội Cố ý gây thương tích.
Trở lại giai đoạn lập pháp trước đó, theo quy định của BLHS năm 1985 tội Cố ý gây thương tích được quy định tại điều 109, tội Chống người thi hành công vụ được quy định tại điều 205. Tình tiết “Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” được quy định là tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 điều 109 và có hình phạt đến bảy năm tù. Khoản 1 điều 205 BLHS năm 1985 có quy định cụ thể hơn về việc chống người thi hành công vụ gây hậu quả thương tích, đó là: “Người nào dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực chống người thi hành công vụ cũng như dùng mọi thủ đoạn cưỡng ép họ thực hiện những hành vi trái pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định ở Điều 101 và Điều 109, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.”
Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần các tội phạm của BLHS trong đó có tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại điều 109 BLHS năm 1985. Tại điểm 5 chương 6 của nghị quyết quy định: “Nếu người phạm tội giết người thi hành công vụ, thì họ bị xử lý về tội giết người theo Điều 101 khoản 1 điểm c; nếu họ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người thi hành công vụ, thì tùy tình tiết của vụ án, họ bị xử lý theo Điều 109 khoản 2 điểm b (gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe) hoặc theo Điều 109 khoản 3 (gây cố tật nặng hoặc dẫn đến chết người).”.
Tại mục A công văn số 03 ngày 22/10/1987 của Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn điều 109 BLHS năm 1985 quy định:
“...Nếu nạn nhân được giám định xác định tỷ lệ phần trăm thương tật (còn gọi là tỷ lệ phần trăm mất sức lao động), hoặc nếu nạn nhân thực sự có bị thương tích hay bị tổn hại đến sức khoẻ mà nếu có giám định thì cũng chỉ được xác định tỷ lệ phần trăm thương tật từ 10% trở xuống, thì kẻ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong các trường hợp sau đây:
1. Dùng hung khí nguy hiểm (như dao, súng, v.v.) hoặc dùng thủ đoạn có thể gây nguy hại cho nhiều người. Đây là các trường hợp, việc nạn nhân chỉ thương tích nhẹ là ngoài ý muốn của kẻ phạm tội (thí dụ: kẻ phạm tội dùng dao nhọn đâm nạn nhân, nhưng nạn nhân tránh được nên chỉ bị thương tích nhẹ...).
2. Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân.
3. Phạm tội đối với nhiều người cùng một lúc.
4. Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người.
5. Phạm tội đối với người chưa thành niên (trừ các trường hợp ngược đãi nghiêm trọng hoặc hành hạ con cái theo quy định của Điều 147 BLHS, người già, phụ nữ đang có thai, người ở tình trạng không thể tự vệ được.
6. Phạm tội có tổ chức; phạm tội có đông người tham gia (trừ các trường hợp bị xử lý về tội gây rối trật tự công cộng theo quy định của Điều 198 BLHS.
7. Phạm tội trong thời gian đang chấp hành hình phạt tù, đang bị tạm giam về việc phạm tội, đang bị tập trung cải tạo.
8. Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm.
9. Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
Trong các trường hợp 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 kẻ phạm tội bị xử phạt theo khoản 1 Điều 109 BLHS
Trong các trường hợp 8, 9 kẻ phạm tội bị xử phạt theo khoản 2 Điều 109BLHS Kẻ dùng vũ lực chống người thi hành công vụ mà không gây thương tích hoặc không gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân hay gây thương tích không đáng kể, gây tổn hại không đáng kể cho sức khoẻ của nạn nhân, thì bị xử phạt theo Điều 205 BLHS về tội chống người thi hành công vụ.”
Các quy định từ các điểm từ 1 đến 9 tại mục A công văn số 03 sau này được chuyển hóa thành các điểm từ a đến k điều 104 BLHS năm 1999 (BLHS năm 1999 bổ sung thêm tình tiết “Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê”).
Sau nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/HĐ ngày 29/11/1986 và công văn số 03 ngày 22/10/1987 đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào hủy bỏ hoặc hướng dẫn khác đối với hai văn bản trên. Tuy nhiên về hướng dẫn “Trong các trường hợp 8, 9 kẻ phạm tội bị xử phạt theo khoản 2 Điều 109 BLHS” không còn phù hợp với BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017 nên không thể áp dụng.
2. Một số ý kiến về đường lối xử lý
Tội Chống người thi hành công vụ xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ và thông qua đó xâm phạm đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội là người thi hành công vụ.
Tội Cố ý gây thương tích xâm phạm đến khách thể là quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người được pháp luật hình sự bảo vệ. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội là thân thể người khác.
Như vậy hai tội phạm này có khách thể hoàn toàn khác nhau nhưng có đối tượng tác động giống nhau là con người. Về hình phạt, hai tội đều có hình phạt được quy định ở khoản 1 như nhau, cụ thể là “phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Đây là một lý do dẫn đến có quan điểm về việc xử lý theo điểm k khoản 1 điều 104 BLHS khi cố ý gây thương tích cho người thi hành công vụ có tỷ lệ thương tích dưới 11%, vì tình tiết định tội này được quy định cụ thể tại khoản 1 điều 104 BLHS còn tại khoản 1 điều 257 BLHS không quy định hậu quả là có tỷ lệ thương tích. Quan điểm này còn được phân tích tại một số sách Bình luận chuyên sâu về các tội phạm được quy định trong BLHS.
Theo tôi ý kiến này là không chính xác, bởi các lý do sau:
Về động cơ mục đích phạm tội, người phạm tội dùng vũ lực nhằm cản trở người thi hành công vụ để người thi hành công vụ không thực hiện được nhiệm vụ của mình hoặc ép buộc người thi hành công vụ thực hiện hành vi trái pháp luật. Hành vi dùng vũ lực gây ra hậu quả đến đâu thì người thực hiện hành vi phải bị xử lý đến đấy. Như phân tích nêu trên khách thể bị xâm hại của hai tội là hoàn toàn khác nhau. Đối với tội Chống người thi hành công vụ, khách thể là xâm phạm đến việc thực hiện nhiệm vụ của những người đang thi hành công vụ và thông qua đó xâm phạm đến hoạt động của Nhà nước về quản lý hành chính trong lĩnh vực thi hành nhiệm vụ công. Đối với tội Cố ý gây thương tích, khách thể là quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người được pháp luật hình sự bảo vệ, khách thể này được BLHS bảo vệ khi bị xâm hại đáng kể. Trong trường hợp chống người thi hành công vụ gây thương tích dưới 11% nếu được khởi tố theo điểm k khoản 1 điều 104 BLHS thì có thể dẫn đến việc người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố và vụ án phải được đình chỉ theo điều 105 Bộ luật TTHS, lúc này hoạt động đúng đắn là việc thực hiện nhiệm vụ của người thi hành công vụ và cao hơn là hoạt động của Nhà nước về quản lý xã hội, quản lý nhà nước không được bảo vệ.
Do đó hành vi chống người thi hành công vụ bằng hành vi khách quan cụ thể là dùng vũ lực cản trở người thi hành công vụ thực thi nhiệm vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân gây thương tích dưới 11% phải bị xử lý về tội Chống người thi hành công vụ theo khoản 1 điều 257 BLHS, không thể trở thành tình tiết định tội theo điểm k khoản 1 điều 104 BLHS. Hậu quả người thi hành công vụ bị gây thương tích từ 11% trở lên hay hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân (từ 11% trở lên) chỉ trở thành tình tiết định khung tăng nặng đối với tội Cố ý gây thương tích từ khoản 2 điều 104 BLHS trở lên. Bởi khi đó sức khỏe của con người bị xâm hại đáng kể, khách thể này, đối tượng bị xâm hại này cần được ưu tiên bảo vệ. Hành vi phạm tội phải được xử lý ở một tội danh có hình phạt cao hơn tội Chống người thi hành công vụ (có hình phạt cao nhất đến 7 năm tù) nên phải bị xử lý theo định khung tăng nặng của tội Cố ý gây thương tích theo khoản 2, khoản 3 điều 104 BLHS.
3. Đề xuất, kiến nghị
BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, tội Cố ý gây thương tích được quy định tại điều 134 có một số sửa đổi so với điều 104 BLHS năm 1999, tuy nhiên tình tiết cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác tỷ lệ dưới 11% “Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” quy định tại điểm k khoản 1 điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017 chưa giải quyết được vướng mắc nêu trên. Để các cơ quan tiến hành tố tụng các cấp có căn cứ thống nhất áp dụng pháp luật, đề nghị các cơ quan tư pháp trung ương sớm có văn bản hướng dẫn về việc xử lý đối với người có hành vi chống người thi hành công vụ gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe dưới 11%. Về đường lối hướng dẫn nên quy định cụ thể hành vi chống người thi hành công vụ gây thương tích hoặc gây tổn hại cho người thi hành công vụ với tỷ lệ thương tích dưới 11% thì xử lý về tội Chống người thi hành công vụ theo khoản 1 điều 330 BLHS năm 2015 sửa đổi năm 2017.
Nguyễn Ngọc Phong – Viện KSND huyện Phú Xuyên