Nâng cao chất lượng Bài phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm các vụ án dân sự, HNGĐ

Huỳnh Phương Linh

       Theo quy định của Luật Tổ chức Viện KSND năm 2014 (Điều 27) và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (tại Điều 262) thì bài phát biểu của Kiểm sát viên (KSV) tại phiên tòa sơ thẩm các vụ án dân sự, HNGĐ, hành chính, lao động, KDTM về cơ bản đã thay đổi. Theo quy định đó, KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình tham gia vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Nghĩa là KSV phải phát biểu cả về tố tụng và hướng giải quyết vụ án, như vậy đòi hỏi KSV phải nâng cao trách nhiệm trong cả quá trình nghiên cứu hồ sơ về những quy định về tố tụng (luật hình thức) và các văn bản pháp luật về nội dung (các văn bản pháp luật chuyên ngành: như luật HNGĐ, luật Đất đai...) để từ đó đưa ra được nhận xét, quan điểm giải quyết vụ án, đảm bảo thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của ngành kiểm sát.

       Bài phát biểu của KSV tại phiên tòa dân sự là sự kết tinh của cả quá trình nghiên cứu hồ sơ, tham gia phiên tòa của KSV, là kết quả hoạt động của công tác kiểm sát của KSV, thể hiện vị trí, vai trò của Viện kiểm sát (VKS) trong kiểm sát việc giải quyết các vụ, việc dân sự nhằm bảo đảm cho các hoạt động của Thẩm phán, thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng trong vụ án dân sự được thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích chính đáng của các tổ chức và của công dân. Bài phát biểu được làm căn cứ để VKS thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị sau phiên toà.

       Bài phát biểu phải được xây dựng theo đúng mẫu của Viện KSND tối cao đã ban hành về hình thức và nội dung. Tuy nhiên, khi xây dựng bài phát biểu thì KSV phải có sự tổng hợp và sáng tạo trong trình bày về bố cục làm cho bài phát biểu được ngắn gọn nhưng đầy đủ, logic thể hiện được hoạt động của KSV, thể hiện được vị trí, vai trò của VKS trong việc giải quyết các vụ án dân sự.

       Để bài phát biểu có chất lượng, KSV cần chú ý những vấn đề sau:

       1.Trong thời gian nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa

       Thứ nhất: KSV phải nghiên cứu kỹ toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án để xác định: yêu cầu khởi kiện của các đương sự (của nguyên đơn, phản tố của bị đơn hay yêu cầu độc lập của người có quyền và nghĩa vụ liên quan) để từ đó xác định chính xác quan hệ pháp luật có tranh chấp. Kiểm sát việc thay đổi hay bổ sung yêu cầu khởi kiện của đương sự, nếu nguyên đơn yêu cầu bổ sung mà vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu thì Thẩm phán phải ra thông báo bổ sung yêu cầu khởi kiện gửi cho các đương sự. Phân loại được các yêu cầu của bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan xem đó có phải là yêu cầu phản tố hay yêu cầu độc lập không để xem xét việc thụ lý theo quy định chung.

       Việc xác định chính xác quan hệ pháp luật có tranh chấp làm cơ sở cho việc xác định đúng và đầy đủ người tham gia tố tụng và tư cách tham gia tố tụng của các đương sự;  việc thụ lý của Tòa có đúng hay chưa: về thẩm quyền; trình tự thụ lý; về thời hiệu khởi kiện.

       Thứ hai: Về việc trình nộp tài liệu, chứng cứ của đương sự và việc xác minh, thu thập chứng cứ của Thẩm phán; việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời và các hoạt động tiến hành tố tụng khác của Thẩm phán.

       Phải xem xét về các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã đầy đủ chưa, xác định tính hợp pháp của chứng cứ; nguồn cung cấp chứng cứ: KSV phải kiểm tra từng loại chứng cứ, nguồn chứng cứ và người cung cấp chứng cứ; kiểm tra thủ tục giao nộp các tài liệu, chứng cứ cho Tòa án để xác định tính hợp pháp của chứng cứ trong hồ sơ; xem xét việc thu thập tài liệu, chứng cứ của thẩm phán đã đúng quy định của pháp luật chưa. Về nguyên tắc trong tố tụng dân sự là các đương sự phải trình nộp những tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, nhưng đương sự cũng có quyền đề nghị Tòa án thu thập tài liệu chứng cứ khi thấy tự mình không thể cung cấp những tài liệu chứng có đó (có thể là do đang bị người khác chiếm giữ, hoặc đang do cơ quan nhà nước quản lý…), theo Điều 97 BLTTDS thì trong một số trường hợp Thẩm phán có quyền và trách nhiệm thu thập thêm tài liệu chứng cứ để làm rõ nội dung vụ án, giúp cho việc giải quyết vụ án được triệt để, đúng pháp luật, KSV chú ý trong một số trường hợp khi Thẩm phán thu thập chứng cứ phải ra Quyết định thu thập chứng cứ để đảm bảo thẩm phán thực hiện đúng trình tự quy định.

       Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ để tham gia phiên tòa, phiên họp, nếu phát hiện thấy còn thiếu chứng cứ cần bổ sung thì KSV có thể yêu cầu Thẩm phán tiến hành xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ để làm rõ nội dung vụ án (căn cứ khoản 3 Điều 58 BLTTDS). Việc yêu cầu thẩm phán bổ sung tài liệu chứng cứ trước khi mở phiên tòa thì KSV cần chủ động trao đổi trực tiếp với Thẩm phán hoặc làm phiếu yêu cầu thu thập tài liệu chứng cứ theo biểu mẫu và quy định của ngành kiểm sát để đảm bảo việc giải quyết vụ án được chính xác, đúng pháp luật, làm cơ sở cho KSV phát biểu quan điểm giải quyết vụ án.

       Khi nhận xét, đánh giá các tài liệu, chứng cứ, KSV phải xem xét: các tài liệu, chứng cứ do các đương sự đã đầy đủ chưa, các tài liệu đó có tính chứng minh đối với yêu cầu khởi kiện của đương sự không, tài liệu đó được thu thập như thế nào, do ai quản lý. Muốn được như vậy thì KSV phải căn cứ vào nội dung chi tiết của tài liệu, chứng cứ đó, đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng giữa hình thức với nội dung của tài liệu đó cùng với các tài liệu, chứng cứ khác, nhằm đánh giá bản chất của các tài liệu, chứng cứ do các đương sự giao nộp. Đồng thời, đánh giá các tài liệu của Tòa án đã thu thập là đầy đủ chưa, có đúng trình tự theo quy định của pháp luật không để sử dụng tài liệu đólàm căn cứ cho việc giải quyết vụ án.

       Việc đánh giá tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ do các đương sự nộp và do thẩm phán xác minh thu thập theo quy định là hết sức quan trọng, nếu đánh giá đúng bản chất khách quan của chứng cứ sẽ giúp KSV nhận định, đề nghị hướng giải quyết vụ án được đúng đắn.

       KSV kiểm sát thủ tục phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ của Tòa án, đảm bảo cho các đương sự tham gia tố tụng đều được tiếp cận tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, để họ nắm bắt được cụ thể những yêu cầu cầu khởi kiện của bên kia, làm cơ sở cho đương sự trình bày quan điểm, yêu cầu của mình tại Tòa án.

       Trong trường hợp đương sự yêu cầu Thẩm phán áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự thì KSV phải chú ý xem kiểm sát việc thẩm phán Quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có đúng quy định của pháp luật không, nếu thấy việc áp dụng (hoặc không áp dụng BPKCTT) của Tòa án có vi phạm pháp luật thì báo cáo lãnh đạo viện kiến nghị với Tòa án (theo Điều 140 BLTTDS).

       Trong kiểm sát việc định giá tài sản: chú ý thành phần định giá tài sản có đúng thành phần không, nhất là đối với những vụ án bị hủy nhiều lần mà có liên quan, khiếu nại về thủ tục định giá thì những thành phần HĐ định giá không được tham gia định giá ở những lần giải quyết sau của vụ án đó, đảm bảo tính khách quan của kết luận định giá. Nếu phát hiện có vi phạm trong thành phần định giá thì yêu cầu Thẩm phán khắc phục, đề nghị thành lập một hội đồng định giá khác để đảm bảo tính khách quan của việc định giá.

       Thứ ba: Về thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự. (quy định từ Điều 170 đến Điều 181 BLTTDS)

       Đây cũng là một vấn đề hết sức chú ý: KSV phải kiểm sát việc tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho các đương sự có đầy đủ không, thời gian, địa điểm tống đạt, người tống đạt; phương thức, thủ tục tống đạt có hợp lệ không, có đảm bảo rằng các đương sự có thể nhận được vản bản đó hay không; Chú ý đến việc niêm yết công khai các văn bản tố tụng dân sự về thời gian, địa điểm, trình tự niêm yết có đúng quy định tại điều 179 BLTTDS hay không để kịp thời yêu cầu Tòa án khắc phục. Trường hợp phát hiện có vi phạm trong tống đạt, thông báo cho đương sự dẫn tới việc đương sự không thể tham gia tố tụng theo triệu tập của Thẩm phán thì đề nghị Tòa hoãn phiên tòa để khắc phục, thực hiện việc tống đạt lại cho đương sự theo đúng quy định của pháp luật.

       Thực tiễn đã xảy ra nhiều vụ án Tòa án tiến hành niêm yết văn bản tố tụng không đúng nơi quy định (như: không niêm yết tại nơi cứ trú của đương sự mà lại niêm yết tại bảng tin tổ dân phố nơi đương sự cư trú, làm cho đương sự không biết được quá trình tiến hành tố tụng và giải quyết của Tòa án nên không thể tham gia tố tụng được), hoặc thời gian niêm yết không đủ 15 ngày, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự, dẫn đến bị Tòa án cấp phúc thẩm hủy án.

       Thứ tư: Phải nắm chắc các quy định của Bộ luật TTDS về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án dân sự từ khi Tòa án thụ lý đến trước khi HĐXX nghị án. Có nắm chắc được các quy định của tố tụng thì KSV mới có thể tự tin trong việc kiểm sát các hoạt động tư pháp, làm chủ được với các tình huống phát sinh tại phiên tòa cũng như đưa ra được nhận xét, đánh giá đúng việc tuân theo pháp luật của người tiến hành tố tụng và ngươi tham gia tố tụng dân sự.

       Thứ năm: Phải nghiên cứu kỹ các văn bản pháp luật về nội dung, các luật chuyên ngành trong lĩnh vực đang tranh chấp, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật (Nghị quyết, Thông tư liên tịch, Nghị định…) ở từng thời kỳ để đảm bảo việc phát biểu về quan điểm giải quyết vụ án của VKS và thực hiện kiểm sát quyết định giải quyết của Tòa án đúng theo quy định của pháp luật, nếu phát hiện vi phạm thì báo cáo lãnh đạo viện kiến nghị, kháng nghị theo thẩm quyền.

       2. Tại phiên tòa.

       - KSV kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐXX và những người tham gia tố tụng.

       KSV phải có sự chuẩn bị kỹ về nội dung vụ án, chuẩn bị (có thể trích cứu) những vấn đề quan trọng có nhiều mâu thuẫn, tranh chấp để làm rõ tại phiên tòa; chuẩn bị đề cương hỏi vàtham gia hỏi để làm rõ nội dung vụ án, sử dụng chiến thuật hỏi phù hợp, chiến thuật và phương pháp hỏi cũng là yếu tố quan trọng có tác động đến chất lượng giải quyết vụ án, thể hiện kỹ năng cùa KSV tại phiên tòa (có thể hỏi bị đơn trước, hỏi nguyên đơn sau rồi hỏi những người có quyền và nghĩa vụ liên quan…hoặc ngược lại tùy theo nội dung và diễn biến của từng vụ án cụ thể, nếu vụ án có nhiều tranh chấp thì hỏi rõ từng loại tranh chấp để chốt được vấn đề cần làm rõ). Theo quy định tại Điều 249 BLTTDS, KSV là người hỏi sau cùng, do vậy KSV phải chú ý đến phần hỏi của các bên đương sự, của HĐXX và phần trả lời của các đương sự để đặt câu hỏi phù hợp, không trùng lắp; câu hỏi của KSV cần cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu để các bên trả lời. Câu hỏi đặt ra phải có mục đích và có điểm chốt về kết quả trả lời có liên quan đến vụ án để phục vụ cho việc bổ sung vào nội dung bài phát biểu. Tuy nhiên, trong vụ án phức tạp có nhiều tranh chấp (ví dụ có nhiều khối tài sản nhà, đất…) thì có thể phối hợp với HĐXX đưa ra phương án hỏi phù hợp, KSV có thể tham gia với HĐXX hỏi rõ từng vấn đề, không nhất thiết phải chờ HĐXX hỏi toàn bộ vụ án, như vậy có thể làm cho KSV không bao quát được nội dung vụ án.

       - KSV phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐXX, thư ký phiên tòa và các đương sự. Trường hợp phát hiện HĐXX có vi phạm, thực hiện chưa đúng trình tự tố tụng tại phiên tòa thì KSV phải kịp thời nhắc nhở, đề nghị Chủ tọa điều hành theo đúng quy định, ví dụ như: trường hợp có đương sự vắng mặt nhưng thư ký không thông báo lý do vắng mặt của đương sự thì KSV phải nhắc Chủ tọa phiên tòa, hỏi rõ về lý do vắng mặt của đương sự, hay đề nghị chủ tọa công bố đơn xin xử vắng mặt của đương sự (nếu có) để các bên tham gia phiên tòa đều biết-> đây là căn cứ để đề nghị hoãn phiên tòa hay tiếp tục xét xử.

       - Ghi bút ký phiên tòa: đây là việc làm hết sức quan trọng tại phiên tòa, KSV phải có phương pháp theo dõi, ghi chép những diễn biến xảy ra tại phiên tòa, nhất là những thay đổi, bổ sung tài liệu, chứng cứ của các đương sự, những lời khai có nội dung mới, khác với lời khai có trong hồ sơ để kịp thời xử lý, bổ sung vào bài phát biểu.

       - KSV phát biểu tại phiên tòa: Bài phát biểu của KSV nên có sự chuẩn bị dự thảo trước, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ và kịp thời bổ sung những tình tiết phát sinh mới tại phiên tòa để đảm bảo chính xác, thuyết phục. Những yêu cầu của đương sự khi khởi kiện và sự thay đổi, bổ sung tại phiên tòa (nếu có) đều phải được phân tích, nhận định trong bài phát biểu. Chú ý đến việc bổ sung, thay đổi yêu cầu khởi kiện của đương sự có vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu hay không để xem xét chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu khởi kiện bổ sung đó.

       Khi phát biểu về hướng giải quyết vụ án, KSV cần tóm tắt nội dung vụ án, nêu được những yêu cầu khởi kiện của đương sự được chốt tại phiên tòa; phân tích các tài liệu, chứng cứ mà các đương sự đã nộp và những tài liệu thẩm phán xác minh, thu thập có trong hồ sơ và tài liệu đương sự nộp tại tòa (nếu có); đánh giá sự khách quan, hợp pháp của chứng cứ để làm cơ sở cho đề nghị về hướng giải quyết vụ án.

       Phân tích, đánh giá quan điểm của các bên đương sự trên cơ sở tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án, lời trình bày, ý kiến tranh luận của các bên. Từ đó xác định những yêu cầu nào của đương sự là có căn cứ pháp luật, những yêu cầu nào không có căn cứ. Việc phân tích, đánh giá tài liệu chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ, cần đảm bảo tính khách quan, toàn diện, tính có liên quan, theo trình tự thời gian để xác định chính xác nội dung vụ án, các điều luật cụ thể cần áp dụng được quy định trong các văn bản pháp luật để đưa ra đề nghị hướng giải quyết vụ án phù hợp với quy định của pháp luật.

       Trên đây là một số kinh nghiệm trong việc xây dựng bài phát biểu của KSV tại phiên tòa dân sự của tác giả để bạn đọc tham khảo và trao đổi thêm nhằm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung và công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự nói riêng.

Trần Lương Tuấn - Phòng 9, VKSND thành phố Hà Nội

Bài viết trước Khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết Đ226BLHS
Bài viết tiếp theo Chống người thi hành công vụ gây thương tích dưới 11% xử lý tội Chống người thi hành công vụ theo khoản 1 Điều 257 BLHS hay tội Cố ý gây thương tích theo điểm k khoản 1 điều 104 BLHS
In
4578 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều