XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH NHỮNG NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG TRONG CÁC VỤ ÁN LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN, CÒN NHIỀU VƯỚNG MẮC TRÊN THỰC TIỄN!
Việc xác định tư cách tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Theo điểm c khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010 của liên bộ Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao về hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) thì xác định sai tư cách người tham gia tố tụng dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ là một trong những trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Hậu quả pháp lý có thể xảy ra là án oan, sai; án bị hủy, sửa. Đặc biệt, Quyền và lợi ích của những người tham gia tố tụng không được bảo đảm. Vai trò bảo vệ quyền con người của pháp luật không đạt được. Do đó, xác định đúng tư cách của người tham gia tố tụng là một trong những khâu then chốt để giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.
Trong thời buổi nền kinh tế thị trường, nhu cầu xin việc, xin học, đi xuất khẩu lao động trở nên cấp thiết, đặc biệt là ở nước đang phát triển và dân số tăng nhanh như Việt Nam. Từ thực tiễn trên, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản (chủ yếu là tiền) của những người có nhu cầu xin học, xin việc đang tăng lên. Chỉ nghiên cứu trên địa bàn quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội: trong vòng 3 năm (2014, 2015, 2016) Cơ quan điều tra đã thụ lý giải quyết 87 vụ/84 bị can về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong số đó, trên 50% số vụ là liên quan đến lừa đảo tiền xin học, xin việc, xuất khẩu lao động. Từ thực tiễn giải quyết các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tác giả nhận thấy thủ đoạn phạm tội phổ biến là đối tượng đưa ra thông tin gian dối về việc mình có khả năng xin học, xin việc, “chạy việc” . Sau đó người người có nhu cầu (hoặc người thân của người có nhu cầu) tự mình đưa tiền hoặc giao tiền cho đối tượng qua bên thứ ba (còn gọi là “trung gian”). Người trung gian được hiểu như người môi giới. Nhiều người còn coi đó là một “nghề”. Trong vụ án, tùy từng trường hợp người trung gian môi giới được xác định tham gia tố tụng với những tư cách khác nhau.
Trên thực tế, không dễ dàng xác định tư cách tham gia tố tụng của người trung gian trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ở những vụ án đơn giản, có một người đưa tiền trực tiếp cho đối tượng thì việc xác định tư cách tham gia tố tụng rõ ràng. Nhưng số lượng các vụ án như vậy không nhiều, chủ yếu là các vụ án liên quan đến nhiều người, qua nhiều khâu trung gian khiến nội dung sự việc phức tạp, do đó xác định tư cách tham gia tố tụng của những người này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên, việc xác định tư cách tham gia tố tụng của người trung gian trong một vụ án hoặc ở những vụ án tương tự nhau lại có nhiều quan điểm không đồng nhất khiến thực tiễn giải quyết gặp nhiều vướng mắc.
Tác giả dẫn chứng một vài vụ án cụ thể:
1. Vụ án thứ nhất: Qua mối quan hệ xã hội, ông Nguyễn Công Đ quen biết Nguyễn Xuân C (SN: 1981). Ông Đ đặt vấn đề về việc“chạy án” cho con trai ông Đ là Nguyễn Tiến Đ đang bị Công an quận H bắt giữ về tội Cố ý gây thương tích. Do quen biết với Lương Đức T (SN: 1981), biết T không phải là người có thẩm quyền trong vụ việc của anh T nhưng có mối quan hệ với người có chức vụ, nên C đã gọi điện cho T, T nói có thể lo được với giá 175.000.000 đồng , còn báo giá tăng bao nhiêu là việc của C. C nói với ông Đ giá là 200.000.000 đồng, hứa hẹn với ông Đ sau 03 ngày sẽ lo được cho anh Nguyễn Tiến Đ tại ngoại và không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ngày 23/7/2013, C nhận của ông Đ số tiền 200.000.000 đồng (có viết giấy vay tiền). Nhận tiền xong, đến 16h cùng ngày, C đến gặp đưa cho T số tiền 175.000.000 đồng (có viết giấy vay tiền), giữ lại 25.000.000 đồng để chi tiêu cá nhân (tiền môi giới). T nhận tiền nhưng không có khả năng “chạy án” và chi tiêu hết số tiền trên. Ông Đ trình báo cơ quan công an, C và T bị bắt khẩn cấp. Sau đó gia đình C và T đã trả cho ông Đ số tiền 200.000.000 đồng .
Xét về lý luận cấu thành tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
(1) Nguyễn Xuân C, Lương Đức T đều trên 18 tuổi và không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (thỏa mãn dấu hiệu chủ thể)
(2) Hành vi của Nguyễn Xuân C, Lương Đức T đã xâm phạm đến quan hệ sở hữu về tài sản (tiền của ông Đ) được Luật hình sự bảo vệ (thỏa mãn dấu hiệu khách thể của tội phạm)
(3) Hành vi khách quan của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt, và phương thức để thể hiện hành vi chiếm đoạt ở tội phạm này là thủ đoạn gian dối. Ở ví dụ trên, việc C nói và hứa với ông Đ về việc trong 3 ngày có thể “chạy án” cho anh Nguyễn Tiến Đ là hành vi gian dối. Vì chính C cũng không chắc chắn điều đó, thể hiện qua việc cả C và T đều không phải là những người có thẩm quyền trong việc giải quyết vụ việc của anh Đ. Hậu quả là C, T đã chiếm đoạt tiền của ông Đ ( Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có cấu thành vật chất, nên hành vi phạm tội đã hoàn thành). Việc C gian dối có mối quan hệ nhân quả với việc C,T chiếm đoạt được tiền.
(4) Về mặt Chủ quan: Tội phạm được thực hiện do lỗi cố ý. Mục đích của C, T là mong muốn lấy được tiền của ông Đ, và thực tế sau khi cầm tiền của ông Đ thì C đã tự giữ lại cho mình 25.000.000 và chi tiêu hết.
Tuy nhiên, để nghiên cứu toàn diện vụ án, ta còn phải xem xét ở góc độ đồng phạm để phân tích cụ thể vai trò của C, T. Điều 20 Bộ luật hình sự hiện hành định nghĩa đồng phạm như sau: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.
Về mặt khách quan, đồng phạm đòi hỏi hai dấu hiệu: (1 ) Có từ hai người trở lên và những người này có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm; (2) Những người này phải cùng thực hiện tội phạm (cố ý). Về mặt chủ quan, đồng phạm đòi hỏi ba dấu hiệu: (1) Lỗi cố ý; (2) Động cơ phạm tội (nếu cấu thành tội phạm tương ứng quy định dấu hiệu động cơ); (3) Mục đích phạm tội (nếu cấu thành tội phạm tương ứng quy định dấu hiệu mục đích).
Quan điểm thứ nhất cho rằng: đồng phạm phải có sự bàn bạc, liên kết giữa những người đồng phạm nên việc chung ý chí là điều tất yếu. Nguyễn Xuân C là người trung gian, mục đích của C là có được tiền “hoa hồng” (25.000.000 đồng) từ việc chạy án, mặc dù C biết Lương Đức T không phải là người có thẩm quyền nhưng C có niềm tin T chạy án do T có nhiều mối quan hệ, C tin tưởng và nghĩ rằng T có thể làm được điều đó, Việc T không chạy được án cho con ông Đ là nằm ngoài mục đích của C. Do đó, C không đồng phạm với T. Nguyễn Xuân C tham gia tố tụng với tư cách là người liên quan, ông Nguyễn Công Đ là bị hại.
Quan điểm thứ hai cho rằng: ông Nguyễn Công Đ là người bị hại, Nguyễn Xuân C là đồng phạm giúp sức hành vi phạm tội của Lương Đức T, do đó C cũng bị khởi tố, tham gia tố tụng với tư cách bị can.
Người viết đồng nhất với quan điểm 2 bởi lẽ khi T đưa ra thủ đoạn gian dối thì C vì lợi nhuận đã truyền đạt đến người bị hại để người đó tin tưởng việc của mình có thể giải quyết bằng số tiền 200.000.000 đồng. Và C cầm tiền đưa cho T 175.000.000 đồng, giữ lại 25.000.000 đồng chi tiêu cá nhân. Mặc dù không bàn bạc nhưng rõ ràng không có C thì T không thể chiếm đoạt được tiền của ông Đ và không có C thì ông Đ cũng không đưa số tiền đó cho T vậy C phải là đồng phạm giúp sức trong hành vi phạm tội này.
2. Vụ án thứ hai: Anh Lưu Văn S và anh Lê Văn B có quan hệ họ hàng với chị Phùng Thị P. Khoảng tháng 07 năm 2014, anh S và anh B đặt vấn đề nhờ chị P giới thiệu xin việc con anh S vào làm trong ngành Công an và con anh B vào học hệ trung cấp Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy. Chị P được người quen giới thiệu gặp Trương thị H. Khoảng đầu tháng 8 năm 2014, chị P gặp H đặt vấn đề xin học và xin việc, H đồng ý. Sau đó H gặp Nguyễn Văn T để nhờ T về việc xin việc và xin đi học con anh S và B. T giới thiệu cho H gặp Nguyễn Văn Y là người cùng làng với T, có khả năng xin được học, việc. Tháng 8 năm 2014, H, T và Y gặp nhau. Y nói dối tên là K đang là giảng viên Đại học Quốc Gia (thực chất Y là giáo viên dạy ở các trung tâm chứ không phải Giảng viên Đại học) mục đích của Y để tạo sự tin tưởng với H và có vấn đề gì H sẽ không tìm được Y. Y giới thiệu có rất nhiều mối quan hệ quen biết rộng và có khả năng xin việc và xin học vào Công an. Khi H đặt vấn đề xin việc và xin học Y nói sẽ xin cho con anh S vào làm ở Vụ pháp chế - Bộ Công an, con anh B vào hệ trung cấp trường Đại học Phòng cháy chữa cháy. Y nói với H hồ sơ và tiền đưa qua T, T sẽ đưa lại cho Y. Y nói với T giá xin việc vào Vụ pháp chế - Bộ Công an là 140.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng, xin học vào hệ trung cấp Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy là 140.000.000 đồng đến 150.000.000 đồng. Y nói với T là chuyển hồ sơ và tiền chuyển trước 50% khi nào xong việc thì chuyển đủ tiền cho Y. T báo giá lại cho H mỗi trường hợp xin việc và xin học là 250.000.000 đồng. H báo giá cho chị P, anh S, B xin việc vào làm Vụ Pháp chế - Bộ Công an là 350.000.000 đồng, xin học vào hệ trung cấp Trường Đại học Phòng cháy chữa cháy là 250.000.000 đồng. Anh A và anh B đồng ý.
Sau đó anh S đưa cho H số tiền 200.000.000 đồng, H đưa hết T số tiền 200.000.000 đồng, T đưa Y 70.000.000 đồng. Anh B chuyển cho P số tiền 200.000.000 đồng, P đưa 190.000.000 đồng cho H, H đưa T số tiền 190.000.000 đồng, T đưa Y 100.000.000 đồng.
Tổng số tiền mà T giữ lại là 220.000.000 đồng . T khai do Y thỏa thuận với T đưa trước 50% số tiền khi nào xong việc sẽ đưa thêm. Về thông tin gian dối mà Y đưa ra, T khai T nghĩ Y là giảng viên trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, tên đi làm là K còn Y là tên ở làng.
Đối với số tiền 170.000.000 đồng Y nhận từ T. Y khai đã sử dụng hết vào mục đích cá nhân.
Sau khi con anh S và con anh B không xin được đi làm và đi học, Anh S và anh B có đơn tố giác đến cơ quan điều tra, ngày 16/9/2016, H đã bỏ ra số tiền 210.000.000 đồng cùng với số tiền 180.000.000 đồng Y trả cho H, tổng là 390.000.000 đồng trả lại cho chị P để chị P trả cho anh S và anh B.
Ví dụ trên là điển hình cho thực tế xin học, xin việc hiện nay ở các thành phố, thị xã lớn. Khi mà người có nhu cầu xin việc vì mù quáng tin tưởng vào các mối quan hệ xã hội và những lời hứa hẹn, thông qua nhiều người trung gian, mỗi người sau khi nhận giúp lại tự ý kênh số tiền lên, dẫn đến người có nhu cầu chuyển cho họ một số tiền lớn. Cuối cùng tiền mất, công việc không xin được, lại phải nhờ đến pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích cho mình. Vấn đề tranh cãi trong vụ án trên là tư cách tham gia tố tụng của anh Lưu Văn S, anh Lê Văn B, chị Phùng Thị P, Trương Thị H, Nguyễn Văn T và Nguyễn Văn Y? Hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản của Y không phải bàn cãi nên Y chắc chắn bị khởi tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.Còn P, H, T đều là những người trung gian trong vụ án này, họ được xác định tham gia tố tụng với tư cách nào? Như chúng ta đã biết, hậu quả pháp lý của việc xác định sai tư cách tham gia tố tụng trong những vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung và vụ án trên nói riêng có thể dẫn đến: (1) làm oan người vô tội, hoặc bỏ lọt tội phạm; (2) truy tố người phạm tội sai khung khoản. (3) Vấn đề bồi thường dân sự khó xác định. Tất yếu sẽ làm quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng bị xâm hại nghiêm trọng là nguyên nhân dẫn đến vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Do đó, việc thận trọng trong áp dụng pháp luật là vô cùng cần thiết.
Có rất nhiều luồng ý kiến trong việc giải quyết vụ án trên:
Quan điểm thứ nhất: Trương Thị H là người bị hại. Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn Y là bị can. Anh Lưu Văn S, anh Lê Văn B, chị Phùng Thị P là người liên quan. Cơ sở để xác định H là người bị hại vì sau khi hành vi phạm tội xảy ra thì H là người bỏ tiền của mình để trả lại anh S và anh B, còn số tiền 170.000.000 đồng Y cầm và 220.000.000 đồng T cầm không trả lại nên Y và T cùng chiếm đoạt được số tiền chung là 390.000.000 đồng nên bị khởi tố, truy tố theo khoản 3 Điều 139 BLHS. Những người còn lại (anh S, anh B, chị P) là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Quan điểm thứ hai: Nguyễn Văn Y là bị can, Nguyễn Văn T là người bị hại, những người còn lại là người liên quan. Cơ sở để xác định T là người bị hại vì T là người cầm tiền đưa cho Y. Và T cũng không biết Y có khả năng xin được học, việc (T cũng người bị Y lừa đảo). Khi sự việc pháp lý xảy ra thì T phải có nghĩa vụ trả lại tiền cho H để H trả cho P, P trả cho anh S và anh B (là những người liên quan). Và như vậy Y chỉ chiếm đoạt 170.000.000 đồng từ T nên chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 139 BLHS.
Quan điểm thứ ba : Anh Lưu Văn S và Lê Văn B là người bị hại; Nguyễn Văn Y là bị can; Phùng Thị P, Trương Thị H, Nguyễn Văn T có hành vi giúp sức đồng phạm với Y, hành vi mức độ nên không xử lý.
Người viết đồng nhất với quan điểm này vì lẽ anh S, anh B là người có nhu cầu xin học, xin việc cho con, nên khi nghe thông tin có người “xin đi học được” (thủ đoạn của đối tượng lừa đảo đưa ra) nên đã đưa tiền cho P, P đưa cho H, H cầm 390.000.000 đồng đưa cho T và T cầm lại 220.000.000 đồng, đưa 170.000.000 đồng cho Y. Khi Y cầm được tiền thì hành vi lừa đảo hoàn thành, và lúc này người bị chiếm đoạt tiền phải là anh S, anh B (anh S, anh B là người bị hại), số tiền các anh bị chiếm đoạt bao nhiêu thì bị can sẽ bị định khung hình phạt ở mức đó (ở vụ án trên số tiền bị chiếm đoạt là 390.000.000 đồng nên Y phải chịu trách nhiệm theo Khoản 3 Điều 139 BLHS). Còn P, H, T là những người do tin Y có thể xin đi học được nên đã “giúp sức” để Y chiếm đoạt được tài sản của người bị hại (T do lợi nhuận; P, H do quen biết mà giúp). Do đó, phân tích từng vai trò nếu đã khắc phục tài sản cho người bị hại, bản thân không hưởng lợi thì không xử lý trách nhiệm hình sự.
Ví dụ 3: Khoảng tháng 9/2010, Dương Thị S biết Phan Văn N. Qua trao đổi, N giới thiệu với S quen biết nhiều người trong ngành Công an, có khả năng xin được vào học các khoa Cảnh sát Cơ động, Cảnh sát đặc nhiệm trường Trung cấp Cảnh sát Vũ trang. Chi phí để xin cho một người là 120.000.000đồng, đặt cọc 60.000.000đồng. Sau khi có giấy gọi nhập học sẽ giao đủ tiền. Đến cuối năm 2010, Dương Thị S nhận 110.000.000 đồng của gia đình Ngô Anh Đ, 90.000.000 đồng của Nguyễn Khắc V và Nguyễn Viết T (do ông L ở Kim Bôi, Hòa Bình nhờ) để xin cho 03 trường hợp trên vào học tại trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang. Dương Thị S đã đưa cho Phan Văn N số tiền 210.000.000 đồng (có giấy biên nhận). Ngoài ra, Phùng Văn H là con rể Dương Thị S cũng nhờ N xin học cho Phan Xuân L vào trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang. H đưa cho N số tiền 60.000.000 đồng. Tổng số tiền Dương Thị S, Phùng Văn H đã chuyển cho Phan Văn N là 270.000.000đồng cùng 04 bộ hồ sơ xin học trường trung cấp Cảnh sát vũ trang. Quá trình điều tra không xác định được địa chỉ, lai lịch cụ thể của Nguyễn Khắc V, Nguyễn Viết T, ông L ở Kim Bôi, Hòa Bình. Ngày 26/2/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra ra quyết định tách rút tài liệu về hành vi Phan Văn N nhận số tiền 90.000.000 đồng của Dương Thị S để xin học cho hai trường hợp Nguyễn Khắc V và Nguyễn Viết T để điều tra làm rõ xử lý sau. Như vậy, quá trình điều tra xác định được Ngô Anh Đ, Phan Xuân L đã nhờ Dương Thị S, Phùng Văn H đứng ra trực tiếp giao dịch, thỏa thuận với Phan Văn N để xin vào học Trường Trung cấp Cảnh sát vũ trang. Số tiền Phan Văn N chiếm đoạt thông qua việc xin học cho hai trường hợp này là 180.000.000 đồng. Sau khi không có giấy gọi nhập học Dương Thị S, Phùng Văn H gặp Phan Văn N đòi lại tiền, N không trả nên S và H đã bỏ tiền cá nhân ra trả cho Ngô Anh Đ và Phan Xuân L đủ 180.000.000 đồng. Sau đó S gửi đơn đến Cơ quan Công an trình báo.
Qua trình giải quyết vụ án gặp vướng mắc trong việc xác định ai là người bị hại trong vụ án: quan điểm thứ nhất xác định Ngô Anh Đ, Phan Xuân L, Nguyễn Viết T, Nguyễn Khắc V là người bị hại. Quan điểm thứ hai xác định Dương Thị S, Phùng Văn H là người bị hại.
Xét về góc độ lý luận, người bị hại phải là người bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. So sánh thiệt hại của người có nhu cầu xin việc và người nhà của họ (gọi chung là người lao động) với thiệt hại của người trung gian, rõ ràng người lao động là người bị thiệt hại trực tiếp do hành vi phạm tội gây ra, họ đưa tiền với mong muốn xin được việc/học, nhưng công việc không đạt được, số tiền họ bỏ ra bị chiếm đoạt và chi tiêu hết. Theo tâm lý thông thường, họ sẽ tìm đến người mà họ trực tiếp đưa tiền để đòi lại tiền đã mất. Lúc này, nếu người trung gian là người có trách nhiệm với lời hứa, hoặc do mối quan hệ thân quen, một số người sẽ tự bỏ tiền của mình để đền bù cho người lao động (như ví dụ 3), cũng có thể không kịp thời đền bù (như ví dụ 2), hoặc cùng đền bù (như ví dụ 1). Và người nào đang chịu thiệt hại thì sẽ gửi đơn trình báo lên cơ quan chức năng. Vô hình chung, khi xác định tư cách tham gia tố tụng của những người trung gian, có lẽ người tiến hành tố tụng đang bị ảnh hưởng tâm lý ai gửi đơn trình báo là người bị hại, mà quên đi mất rằng chúng ta phải xác định rõ tư cách tham gia tố tụng của từng người trong vụ án ngay tại thời điểm tội phạm hoàn thành, nghĩa là có hậu quả xảy ra (người phạm tội chiếm đoạt được tài sản) theo đúng cấu thành vật chất của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do vậy, ở vụ án trên xác định Ngô Anh Đ, Phan Xuân L, Nguyễn Viết T, Nguyễn Khắc V là người bị hại theo quan điểm thứ nhất là có cơ sở.
Quan điểm chung của tác giả: Đứng trên phương diện người áp dụng pháp luật, tác giả thấy rằng mỗi một sự việc phạm tội đều có thể phân tích theo nhiều hướng khác nhau, việc đó là cần thiết để cùng trao đổi và tìm ra cách giải quyết đúng đắn nhất. Kết quả cuối cùng mà mỗi người tiến hành tố tụng đều mong muốn là vụ án được giải quyết khách quan, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật, quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng được đảm bảo. 03 ví dụ trên đều là những vụ án thực tế đã và đang được giải quyết, dù nội dung vụ án không hoàn toàn giống nhau nhưng đều có một điểm chung là: xuất hiện người trung gian giúp sức cho việc chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Người trung gian là người có thông tin của cả hai bên, là người trực tiếp trao đổi thông tin từ hai phía, nên họ phải nhận thức rõ hành vi của mình cũng như hậu quả có thể xảy ra và mong muốn cho việc phạm tội được thực hiện. Do vậy, khi tiến hành giải quyết vụ án, chúng ta cần đấu tranh làm rõ vai trò, trách nhiệm của những người này trong việc thực hiện tội phạm. Nếu hành vi giúp sức rõ ràng, có mối quan hệ nhân quả với hậu quả xảy ra, cần khởi tố để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Chỉ trong trường hợp hành vi phạm tội có mức độ, hậu quả đã được khắc phục thì mới xem xét trách nhiệm của họ có nên xử lý hay không? Đồng thời, tác giả hi vọng Liên ngành tư pháp trung ương tập hợp khó khăn vướng mắc những vụ án có hành vi tương tự như trên, ban hành án lệ để các cấp có hướng áp dụng thống nhất và đúng đắn. Ngoài ra, pháp luật cũng cần sửa đổi theo hướng quy định cụ thể về vấn đề lỗi của người đồng phạm. Vấn đề mà sách báo khoa học hình sự từ trước đến nay chưa đề cập là trong vụ đồng phạm có thể đồng thời có cả lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp không? Tác giả cho rằng, việc đặt ra vấn đề này là có cơ sở khoa học. Bởi vì, đồng phạm do nhiều người thực hiện, do đó hoàn toàn có thể xảy ra trường hợp thái độ tâm lí của họ đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra không giống nhau. Trong đó có trường hợp họ cùng thống nhất với nhau về việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội (cùng nhận thức được hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được tính nguy hiểm trong hành vi của những người kia, cùng thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình cũng như hậu quả chung của tổng hợp hành vi mà họ cùng thực hiện), tuy nhiên họ lại khác nhau về thái độ đối với hậu quả: Có người mong muốn hậu quả phát sinh nhưng có người lại có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh. Nếu trường hợp đó xảy ra trên thực tế, chúng ta có thể coi đó là đồng phạm hay không? Chỉ khi pháp luật quy định rõ ràng thì người áp dụng pháp luật mới có thể áp dụng chính xác.
Trên đây là quan điểm của tác giả đúc rút từ quá trình giải quyết vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp./.
Ngô Bích Liên - Viện trưởng VKS quận Nam Từ Liêm