Thực tiễn công tác kiểm sát khi thi hành Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Hà Nội

Huỳnh Phương Linh

Theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính (Luật XLVPHC), kể từ ngày 1.1.2014 việc áp dụng các biện pháp xử lý VPHC: đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc thẩm quyền của TAND (Phần III Luật XLVPHC; khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 24/2012/NQ-QH ngày 20/6/2012). Với chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, VKS được giao nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC của TAND cùng cấp từ khi tòa án thụ lý đến khi các quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật.

Để cụ thể hóa các quy định của Luật, UBTVQH đã ban hành Pháp lệnh số 09/2014/UBTVQH 13 ngày 20/01/2014 quy định về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND (Pháp lệnh 09 ngày 20/01/2014).

Quá trình thực thi các quy định của pháp luật có những khó khăn vướng mắc khi lập hồ sơ trước khi chuyển tòa án  quyết định, điều này khiến các địa phương còn nhiều lúng túng khi triển khai thực hiện đặc biệt đối với biện pháp đưa đi cai nghiện bắt buộc, sau khi có các văn bản hướng dẫn, Phòng 10 xin được cụ thể hóa những vẫn đề sau:

  1. Về hệ thống các văn bản pháp luật quy định:

- Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (Phần 3 từ Điều 90 đến Điều 118)

- Pháp lệnh 09/2014/UBTVQH 13 ngày 20/01/2014;

- Điều 40, Điều 41 luật TTHC 2011;

- Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính Phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

- Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BLĐTBVXH-BYT-BCA ngày 10/2/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của nghị định số 94/2010/NĐ-CP ngày 9/9/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức cai nghiện ma túy tại gia đình, cai nghiên ma túy tại cộng đồng (khoản 2 Điều 1; Điều 5,6 chương III quy định thẩm quyền xác định người nghiện ma túy; thủ tục xác định người nghiện ma túy).

- Quyết định 566/QĐ-VKSTC-V9 ngày 14/11/2014 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao giao nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong thi hành Pháp lệnh 09/2014/UBNVQH ngày 20/01/2014;

- Quyết định số 7144/QĐ-UBND ngày 27/12/2014 của UBND TP Hà Nội về việc ban hành quy chế về trình tự, thủ tục, thẩm quyền tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn TP Hà Nội.

- Kế hoạch số 74/KH-UBND UBND TP Hà Nội ngày 24/3/2015 về việc chỉ đạo tập trung lập hồ sơ, quản lý và đưa người nghiện ma túy không có nơi cư trú ổn định vào các cơ sở cai nghiện bắt buộc trên địa bàn TP Hà Nội.

- Hướng dẫn số 17/HD-VKSTC-V12 ngày 6/2/2015 của Vụ 12 Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn VKSND cấp tỉnh thực hiện công tác kiểm sát khi thi hành Luât XLVPHC và Pháp lệnh 09.

2. Chức năng và nhiệm vụ của VKS khi kiểm sát việc xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp XLHC tại tòa án.

* Chức năng:

Theo quy định của  Điều 4 Pháp lệnh 09 thì: Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính, thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị nhằm bảo đảm việc giải quyết kịp thời, đúng pháp luật; tham gia các phiên họp; tham gia việc xét hoãn, miễn, giảm, tạm đình chỉ việc chấp hành quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính; Sau khi nhận được thông báo thụ lý hồ sơ của Tòa án cùng cấp, Viện kiểm sát có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ việc tại Tòa án đã thụ lý vụ việc đó.

- Quyết định 566/QĐ-VKSTC-V9 ngày 14/11/2014 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao giao nhiệm vụ cho: “Đơn vị kiểm sát việc giải quyết các vụ án HC-KDTM- LĐ và những việc khác theo quy định của pháp luật Viện kiểm sát các cấp thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện pháp XLHC của TAND cùng cấp từ khi tòa án thụ lý đến khi các quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật

Chức năng này được giao cho các đơn vị kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chinh, LDTM, LĐ và các việc khác theo quy định của pháp luật của VKS các cấp từ khi tòa án thụ lý giải quyết đến khi các quyết định của TA có hiệu lực pháp luật.

          Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh 09 thì TA có thẩm quyền là TAND cấp huyện nơi cơ quan đề nghị có trụ sở, tương ứng với TA có thẩm quyền thì VKSND cùng cấp  sẽ thực hiện chức năng kiểm sát.

Trường hợp vụ việc có khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị thì Phòng 10 VKSND cấp tỉnh có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của TAND cấp tỉnh trong việc xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị.

b. Nhiệm vụ:

* Pháp lệnh 09 và Hướng dẫn số 17 của VKSNDTC đã quy định rất cụ thể nhiệm vụ và quyền hạnh của VKS trong hoạt động kiểm sát trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp XLHC từ khâu:

- Kiểm sát nhận thụ lý hồ sơ;

- Kiểm sát thông báo thụ lý;

- Kiểm sát quyết định mở phiên họp;

- Kiểm sát việc lập hồ sơ; nghiên cứu hồ sơ: đối với hoạt động này, do Pháp lệnh 09 không quy định việc Tòa án phải chuyển hồ sơ cho VKS  nên kiểm sát viên được phân công cần chủ động trong việc bố trí thời gian nghiên cứu hồ sơ tại tòa án (nếu không có sự phối hợp khác).

- Kiểm sát về thành phần tham gia phiên họp;

- Kiểm sát về trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp;

- Kiểm sát về biên bản phiên họp;

- Kiểm sát về quyết định của Tòa án;

- Thực hiện thẩn quyền kháng nghị của VKS.

* Đối với hoạt động kiểm sát về thủ tục, trình tự giải quyết khiếu nại, kiến nghị, kháng nghị đối với các quyết định của Tòa án trong việc áp dụng các biện pháp XLHC.

Với mục đích đảm bảo cho quyền khiếu nại của người bị đề nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ; quyền kiến nghị của cơ quan đề nghị, việc chấp hành pháp luật của Tòa án.

Hoạt động kiểm sát bắt đầu từ khâu kiểm sát thông báo thụ lý; thông báo mở phiên họp; kiểm sát trình tự tiến hành phiên họp và kiểm sát quyết định của tòa án. Quá trình thực hiện công tác kiểm sát, VKS các cấp được thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị khi phát hiện vi phạm.

3. Những tồn tại và khó khăn trong thực tế thi hành.

Theo phản ánh của các địa phương thì đối với việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (quy định tại Điều 95, 96 Luật XL VPHC) hiện là khâu còn nhiều vẫn đề để tranh luận đặc biệt là việc lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp này (quy định Điều 103, 104 Luật XLVPHC  )

- Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của Chính Phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc cũng cụ thể hóa Luật và quy định hồ sơ đề nghị tại Điều 9 phải có những tài liệu sau:

+ Bản tóm tắt lý lịch;

+ Phiếu trả lời kết quả của người có thẩm quyền vê tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người bị đề nghị áp dụng.

+ Biên bản về hành vi sử dụng ma túy trái phép;

+ Bản tường trình của người nghiện ma túy hoặc người đại diện hợp pháp của họ;

+ Tài liệu chứng minh người đó đã chấp hành xong Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường, thì trấn do nghiện ma túy và Giấy chứng nhận đã chấp hành xong  QĐ XPHC này của Chủ tịch UBND xã;

+ Giấy xác nhận hết thời gian cai nghiện ma túy tại gia đình hoặc tại cộng đồng của Chủ tịch UBND cấp xã hoặc tài liệu chứng minh bị đưa ra khỏi chương trình điều trị nghiện  chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế…

Trong số các tài liệu này thì vướng mắc nhất hiện nay là tài liệu chứng minh tình trạng nghiện ma túy hiện tại của người đó. Vì theo các Quyết định số 5075 ngày 12.12.2007 và quyết định số 3556 ngày 10.9.2014 của Bộ Y tế  quy định tiêu chuẩn xác định tình trạng nghiện của một người phải đủ cả hai điều kiện về lâm sàng và xét nghiệm là rất phức tạp và tốn kém cả về thời gian và vật chất.

- Đối với trường hợp đối tượng bị áp dụng không có nơi cư trú ổn định trong thời gian làm thủ tục áp dụng XPHC thì Luật và Nghị định 221 quy định tại Điều 14 là sẽ giao những người này cho tổ chức xã hội quản lý, tổ chức này phải đảm bảo những điều kiện: về cơ sở vật chất, thiết bị; về nhân sự chuyên môn về y tế. Thực tế các địa phương không có tổ chức xã hội nào vừa có điều kiện như quy định Điều 14, vừa có thể đảm bảo các đối tượng nghiện sẽ phối hợp chịu quản lý.

Do những bất cập, tồn tại nên từ khi Luật xử lý VPHC có hiệu lực đến hết năm 2014 trên địa bàn TP Hà Nội không giải quyết được trường hợp nào.

Nhằm tháo gỡ vướng mắc nêu trên, ngày 27/12/2014, UBND TP hà Nội ban hành Quyết định số 7144 kèm quy chế về trình tự, thủ tục, thẩm quyền tổ chức cai nghiện ma túy trên địa bàn TP Hà Nội với những quy định tại Điều 3 đã cụ thể hóa hơn các quy định khi xác định tình trạng nghiện ma túy là:

- Đối với người đã có trong danh sách quản lý người nghiện của địa phương  (đã bị xử lý về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy) hoặc đã đi cai nghiện dưới mọi hình thức (có hồ sơ lưu giữ ở các cơ quan chức năng, hồ sơ chưa quá 3 năm) và có kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy thì xác định ngay là người tái nghiện ma túy.

- Đối với người có kết quả xét nghiệm dương tính với ma túy (không nằm trong danh sách hoặc không có hồ sơ quản lý) nhưng tự nhận là nghiện hoặc có văn bản của gia đình công nhận là người nghiện thì xác định ngay là người nghiện ma túy.

- Người đủ 18 tuổi trở lên không nơi cư trú ổn định có xét nghiệm dương tính với ma túy, tự nhận nghiện ma tuy túy thì xác định ngay là người nghiện ma túy.

- Người không có nơi cư trú ổn định có có xét nghiệm dương tính với ma túy, tuy không tự nhận đã nghiện nhưng có căn cứ nghi ngờ là người nghiện sẽ đưa vào cơ  sở tiếp nhận đối tượng xã hội của thành phố để quản lý theo dõi, xác định tình trạng nghiện, cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý.

Với những quy định cụ thể hơn của Quyết định 7144 ngày 27/12/2014, các đơn vị quận huyện trên địa bàn TP Hà Nội đã tiến hành giải quyết được các hồ sơ đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

* Tuy nhiên qua nghiên cứu, chúng tôi thấy hiện có một số quy định chưa phù hợp, các đơn vị cần lưu ý như sau:

- Tại khoản 3 Điều 41 Luật TTHC quy định trường hợp người tiến hành tố tụng đã tham gia vào việc ra quyết định hành chính hoặc có liên quan đến hành vi hành chính bị khởi kiện thì phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng.

- Tại khoản 2 Điều 7 Quy chế ban hành kèm Quyết định 7144 của UBNDTP Hà Nội quy định về thành phần Tổ tư vấn thẩm định hồ sơ cấp huyện trong đó Viện trưởng VKSND cấp huyện là thành viên tổ tư vấn. Quy định này là chưa phù hợp với khoản 3 Điều 41 Luật TTHC.

Trên đây là một số vấn đề thực tiễn, Viện Kiểm sát NDTP Hà Nội đã nghiên cứu, tập hợp và giải quyết việc tuân theo pháp luật khi thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Pháp lệnh 09/2014/UBTVQH ngày 20/01/2014 quy định về trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại TAND trên địa bàn thành phố Hà Nội để các đồng chí và các bạn tham khảo.

Huyền Phương Phòng 10 - Viện KSND thành phố Hà Nội

Bài viết trước VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN TỔ CHỨC HỘI NGHỊ RÚT KINH NGHIỆM 2 NĂM THỰC HIỆN THÔNG TƯ LIÊN TỊCH SỐ 06/2013......
Bài viết tiếp theo MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN TỬ HÌNH BẰNG HÌNH THỨC TIÊM THUỐC ĐỘC
In
4428 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều