Tăng cường trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng hình sự

Huỳnh Phương Linh

       Bộ luật Tố tụng hình sự là bộ luật thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, quy định của Hiến pháp bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện xử lý, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội;quy định trình tự,thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố,điều tra,truy tố,xét xử và thi hành án hình sự, không ngừng tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đặc biệt ngày 27/11/2015, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã không ngừng phát huy ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn và vận dụng một cách linh hoạt những ưu điểm của mô hình tố tụng tranh tụng phù hợp với tình hình thực tế của nước ta. Theo đó quyền con người, quyền công dân ngày càng được bảo đảm.

       Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực vào ngày 01/01/2018 và cũng là thời điểm Luật trợ giúp pháp lý số 11/2017 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6/2017 có hiệu lực.

       Luật trợ giúp pháp lý quy định về người được trợ giúp pháp lý, tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện trợ giúp pháp lý, hoạt động trợ giúp pháp lý, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, pháp nhân đối với hoạt động trợ giúp pháp lý; Cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật. Luật trợ giúp pháp lý quy định trách nhiệm của Nhà nước phải có chính sách bảo đảm quyền trợ giúp pháp lý; chính sách nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý, thu hút các nguồn nhân lực để thực hiện trợ giúp pháp lý.

       Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng thì nhà nước có trách nhiệm là xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật, phải quan tâm đến người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội bằng các chính sách pháp luật và các biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ cụ thể để đưa pháp luật đến với người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội để pháp luật thực sự phản ánh ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Tăng cường các biện pháp để bảo vệ quyền, lợi ích của công dân, hạn chế phân hóa giàu nghèo, bảo đảm công bằng xã hội, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. 

       Luật trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định việc giúp đỡ pháp lý miễn phí của Nhà nước và xã hội đối với người nghèo và đối tượng chính sách theo quy định của pháp luật nhằm nâng cáo ý thức pháp luật, bảo đảm công bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an toàn xã hội và thúc đẩy nhanh việc hoàn thiện về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Trợ giúp pháp lý cần phải được mở rộng loại hình tư vấn pháp luật để đáp ứng nhu cầu rộng rãi, đa dạng của nhân dân, của các tầng lớp trong xã hội, hướng tới mục tiêu nhân dân sống và làm việc theo quy định của pháp luật. Tổ chức các hình thức tư vấn pháp luật tạo điều kiện cho người được hưởng tư vấn pháp luật miễn phí gồm các điều kiện cụ thể đối với: người có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, trẻ em, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo, người thuộc một trong các trường hợp có khó khăn về tài chính (cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sỹ, người có công nuôi dưỡng khi liệt sỹ còn nhỏ, người nhiễm chất độc màu da cam, người cao tuổi, người khuyết tật, người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự, nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình, nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người, người nhiễm HIV) khi họ yêu cầu hoặc người thân thích, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác yêu cầu trợ giúp pháp lý. Phạm vi của bài viết này, chỉ đề cập đến một số quy định về quyền con người, quyền công dân cần được trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự.

       Một số điểm mới về quyền được trợ giúp pháp lý mà Bộ luật Tố tụng hình  năm 2015 quy định như sau:

       1. Quy định tư cách của Trợ giúp viên pháp lý trong tham gia tố tụng hình sự: ghi nhận Trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa (Điều 72 Bộ luật TTHS), là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố (Điều 83 Bộ luật TTHS), là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Điều 84 Bộ luật TTHS).

       2. Quy định trách nhiệm cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng: các cơ quan tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền được trợ giúp pháp lý:

       Trong trường hợp người bị buộc tội, người bị hại thuộc diện được trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích cho họ quyền được trợ giúp pháp lý; nếu họ đề nghị được trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước. Việc thông báo, giải thích phải được ghi vào biên bản (Điều 71 Bộ luật TTHS).

       3. Quy định cơ chế bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý trong trường hợp chỉ định người bào chữa; Bộ luật tố tụng hình sự cũng chia sẻ trách nhiệm thực hiện bào chữa theo án chỉ định cho Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước.

       Theo đó, đối với người thuộc diện được trợ giúp pháp lý là: bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi thì Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước phải cử người bào chữa cho họ theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Điều 76 Bộ luật TTHS).

       Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã ghi nhận việc từ chối người bào chữa như sau: trường hợp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa do người thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực tiếp gặp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để xác nhận việc từ chối (khoản 2, Điều 77).

       Những điểm mới, những quy định trên thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật; đẩy mạnh công tác thực thi pháp luật và bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền được trợ giúp pháp lý từ nghĩa vụ thực thi của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng và người áp dụng pháp luật

       Luật trợ giúp pháp lý và Bộ luật tố tụng hình sự có quan hệ mật thiết, nhất là các điều luật từ 57 đến 65 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định 12 trường hợp người tham gia tố tụng (người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; người bị bắt; người bị tạm giữ; bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,) có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đều nhằm mục đích bảo đảm quyền lợi và bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên để những người này (12 trường hợp người tham gia tố tụng hình sự nêu trên) được trợ giúp pháp lý khi họ thuộc một trong các trường hợp là người có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, trẻ em, người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, người bị buộc tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, người bị buộc tội thuộc hộ cận nghèo, người thuộc một trong các trường hợp có khó khăn về tài chính (cha đẻ, mẹ đẻ, vợ, chồng, con của liệt sỹ, người có công nuôi dưỡng khi liệt sỹ còn nhỏ, người nhiễm chất độc màu da cam, người cao tuổi, người khuyết tật, người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi là bị hại trong vụ án hình sự, nạn nhân trong vụ việc bạo lực gia đình, nạn nhân của hành vi mua bán người theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người, người nhiễm HIV, nhưng họ hoặc người thân thích, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác yêu cầu trợ giúp pháp lý, việc trợ giúp pháp lý là miễn phí. Thực tiễn trong đời sống xã hội trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự còn rất khiêm tốn, chủ yếu là người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất, tinh thần, người dưới 18 tuổi khi cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) có văn bản yêu cầu Trung tâm trợ giúp pháp lý phân công người bào chữa “Luật sư công“ tham gia bảo bào chữa.

       Trong quá trình tiến hành tố tụng phần lớn người được trợ giúp pháp lý hoặc người đại diện hợp pháp cho của người bị buộc tội đều có suy nghĩ là trợ giúp pháp lý phải mất tiền phí, nếu không mất phí thì chất lượng bào chữa không cao nên họ không tin tưởng. Hầu hết người tham gia tố tụng khác họ không yêu cầu do họ chưa nắm được quy định của pháp luật về trợ giúp tư pháp là dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí (không phải mất tiền thuê) hoặc họ có yêu cầu nhưng họ không thể mình chứng minh họ thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý nên họ bỏ mặc quyền lợi. Các quy định của Luật trợ giúp pháp lý bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật, dịch vụ pháp lý miễn phí đi vào đời sống xã hội còn hạn chế, rất khiêm tốn.

       Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”;“nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, tức là phán quyết của Tòa án phải dựa trên kết quả tranh tụng, như vậy vai trò của người bào chữa trong phiên tòa ngày càng quan trọng, nếu không có người bào chữa tham gia thì không thể bảo đảm nguyên tắc tranh tụng và khó có phiên tòa công bằng. Như vậy, đội ngũ người bào chữa nói chung cần được tăng cường hơn nữa nhằm đáp ứng nguyên tắc tranh tụng tại Tòa án và quyền bào chữa theo tinh thần Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

       Hơn nữa, một trong những cách thức để tổ chức thi hành những quy định mới về quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong lĩnh vực tư pháp là sử dụng đúng mục đích, hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và huy động tối đa nguồn lực xã hội để đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu trợ giúp pháp lý cho người nghèo, người có công với cách mạng, đối tượng yếu thế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, qua đó nâng cao vị thế, vai trò của pháp luật trong quản lý đất nước, quản lý xã hội và bảo vệ quyền công dân, góp phần xây dựng nền tư pháp công bằng, dân chủ. Đồng thời, qua quá trình thực hiện nghiệp vụ, hoạt động trợ giúp pháp lý cũng sẽ góp phần thực thi công lý, giúp Tòa án thực hiện đúng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, đưa ra các phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật giảm thiểu các lượng án oan sai trong các phiên tòa hình sự. Hơn nữa, góp phần hướng dẫn giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc phức tạp, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài trong thời gian dài do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến giảm lòng tin của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và đối tượng chính sách đối với pháp luật của Nhà nước; góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phù hợp với mục tiêu cải cách tư pháp. Đồng thời, công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp cũng đòi hỏi phải đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động TGPL góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức sự nghiệp công trong lĩnh vực TGPL, phát huy tính chủ động, nâng cao ý thức thực hiện trách nhiệm xã hội của các tổ chức xã hội, nhất là của đội ngũ luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư trong việc trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội.

       Một lần nữa có thể khẳng định vai trò và ý nghĩa của trợ giúp pháp lý trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết và quan trọng, thể hiện được bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tạo cơ chế bảo đảm công bằng xã hội, mọi công dân dù giàu hay nghèo đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tiếp cận dịch vụ pháp lý như nhau trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường. Trợ giúp pháp lý là một trong những hình thức đưa chủ trương chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần hoàn thiện bộ máy Nhà nước, hoàn thiện pháp luật và nâng cao trách nhiệm công vụ, đồng thời góp phần thiết thực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; nâng cao ý thức pháp luật và trình độ dân trí để người dân biết cách tự ứng xử phù hợp với các quy định pháp luật, góp phần lành mạnh hóa quan hệ xã hội, một phần củng cố lòng tin của người dân vào Nhà nước, pháp luật, góp phần ổn định chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế. Với tư cách là người tiến hành tố tụng, đề xuất một số biện pháp để người dân được tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự:

       - Một là, tổ chức tuyên truyền trên thông tin đại chúng, thông qua cơ quan, tổ chức xã hội phổ biến để người dân hiểu rõ được mục đích, ý nghĩa đích thực của của Luật trợ giúp pháp lý, hoạt động đích thực của trợ giúp pháp lý là dịch vụ miễn phí; thể hiện được chính sách uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, đảm bảo tính công bằng trước pháp luật; giải thích cho người dân hiểu rõ được mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Nhà nước quản lý xã hội bằng hệ thống pháp luật.

       - Hai là, tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ, cộng tác viên, mở rộng hiệu quả nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý trên tất cả các lĩnh vực, cho tất cả các đối tượng bằng nhiều hình thức, nhiều phương pháp, đáp ứng nhu cầu của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Lấy số lượng người yêu cầu được trợ giúp pháp lý, lòng tin của người được trợ giúp pháp lý là thước đo cho hiệu quả của hoạt động trợ giúp pháp lý.

       - Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội trong hoạt động trợ giúp pháp lý; tạo điều kiện cho các lực lượng xã hội tích cực tham gia trợ giúp pháp lý đặc biệt chú ý đến nhóm người nghèo, đối tượng chính sách xã hội. Xây dựng quy chế phối hợp giữa Trung tâm trợ giúp pháp lý của Nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức nghề nghiệp, đa dạng hóa các mô hình trợ giúp pháp lý. Coi việc hoạt động trợ giúp pháp lý là trách nhiệm, hoạt động bắt buộc đối với cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội.

       - Bốn là, các cơ quan Nhà nước liên quan đến hoạt động tố tụng hình sự như Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự. Tạo điều kiện thuận lợi cho các Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý. Hàng năm có tổ chức liên ngành cấp tỉnh trở lên tố chức kiểm tra, thống kê, tổng kết các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực hiện trợ giúp pháp lý đối với đối tượng được trợ giúp pháp lý.

       - Năm là, phát triển hệ thống trợ giúp pháp lý ở tất cả các cấp từ cấp tỉnh đến cấp xã. Xây dựng đội ngũ cán bộ và cộng tác viên trợ giúp pháp lý đủ mạnh về số lượng và chất lượng, có tính chuyên sâu đủ điều kiện tạo lòng tin của nhân dân đối với hoạt động trợ giúp pháp lý. Có chính sách thu hút các chuyên gia pháp luật, luật sư, người có đủ điều kiện và tiêu chuẩn làm cộng tác viên trợ giúp pháp lý.

       Bài viết chủ ý nêu về tăng cường tuyên truyền một số quy định về trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình sự nhưng không tránh khỏi hạn chế. Rất mong được sự bổ sung đóng góp của bạn đọc.

                                                                 Đỗ Minh Tuấn, Lê Thị Nguyệt Ánh - Phòng 1 

 

Bài viết trước Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo quy định của bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi 2017)
Bài viết tiếp theo Kiểm sát việc giải quyết án hành chính trên địa bàn thành phố Hà Nội, thực trạng và giải pháp.
In
704 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều