Quy định của Bộ luật hình sự 2015 về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn?

Huỳnh Phương Linh

Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ là nhu cầu cấp thiết, xuất phát từ yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay, theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW "Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị, nhằm khắc phục kịp thời những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử nói chung và các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ nói riêng.

Đối với các quy định pháp luật hiện hành, liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, trong Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2015 mới được Quốc hội thông qua, đã có những sửa đổi bổ sung một số nội dung cụ thể, khắc phục cơ bản được những hạn chế bất cập cho phù hợp với thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống vi phạm và tội phạm về trật tự an toàn giao thông đường bộ.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin tham gia ý kiến về Điều 260 Bộ luật hình sự(gọi tắt là BLHS) 2015 về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ. (Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo điều 202 Bộ luật Hình sự hiện hành):

Để quy định tại Điều luật này có thể bao quát và điều chỉnh đầy đủ các đối tượng (hành vi của người đi bộ vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ (như sang đường không đúng nơi quy định, đi không đúng phần đường dành cho người đi bộ); hành vi của người điều khiển các phương tiện cơ giới khác (máy kéo, xe cẩu, xe ủi, máy xúc, xe nâng...) khi tham gia giao thông đường bộ và hành vi của người điều khiển phương tiện cơ giới ở những nơi không thuộc mạng lưới giao thông đường bộ (khu vực công trường; đường ngoài cánh đồng, ngõ, ngách; bãi đất trống; sân bãi....), những thiếu sót tại Điều 202 Bộ luật Hình sự hiện hành, đã được bổ sung, sửa đổi trong Bộ luật hình sự 2015 vừa qua, cụ thể là:

Một là: Sửa tên gọi của Điều luật, tại điều 260 Bộ luật hình sự sửa đổi 2015. Theo đó, tên điều luật được đổi thành: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Hai là: theo quy định tại điểm 21 Điều 3 Luật giao thông đường bộ năm 2008, thì "người tham gia giao thông gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật và người đi bộ trên đường bộ", vì vậy điều 260 của Bộ luật hình sự 2015 đã bổ sung nội dung quy định tại khoản 1 của Điều luật này, bằng cách thay cụm từ "điều khiển phương tiện" bằng từ "tham gia" để bao quát đầy đủ các chủ thể tham gia giao thông đường bộ.

Ba là: Bộ luật hình sự hiện hành có rất nhiều quy định còn mang tính định tính,nên thường phải có một văn bản dưới luật khác để hướng dẫn thực hiện, các điều luật về xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ trong bộ luật cũng vậy(như tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng…). Vì vậy, các quy định có tính định tính này được hướng dẫn cụ thể để thực hiện tại Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Trong những năm qua, hướng dẫn, quy định trong văn bản này đã phát huy tác dụng trong thực tiễn để xử lý các hành vi vi phạm pháp luật do phù hợp với thực tế, nay để dễ nghiên cứu, tiện tra cứu khi thực hiện, đã được tiếp thu, bổ sung cho hoàn chỉnh và pháp điển hóa vào trong các điểm, điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự 2015.

Bốn là: Tại điều 260 Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2015 về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, đã sửa đổi,bổ sung và xây dựng thành 6 khoản, tăng 01 khoản so với điều 202 Bộ luật hình sự hiện hành. Mức án tại các khoản tương ứng cũng như hình phạt bổ sung quy định ở hai điều luật mới và cũ không có sự khác biệt lớn. Nhưng tại điều 260 Bộ luật hình sự 2015 đã bổ sung thêm 01 cấu thành giảm nhẹ ở khoản 04 của điều luật để xử lý một số hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, nhưng ở mức độ nhẹ hơn so với quy định tại khoản 01 điều này. (Khoản 1 Điều 202 và văn bản hướng dẫn của nghị quyết HĐTP quy định là làm chết 01 người hoặc gây thương tích cho 01 người từ 31% trở lên…Còn ở Điều 260 BLHS 2015 đã tách khoản 1 của điều 202 cũ ra để quy định thành 2 khoản, là khoản 1 và khoản 4. Theo đó thì: Nếu gây thương tich hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên thì xử lý theo khoản 1 điều 260, còn nếu gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%...thì được tách ra quy định ở khoản 4 của điều 260 với mức án nhẹ hơn rất nhiều(chỉ có phạt tiền và cải tạo không giam giữ, không có hình phạt tù).

Những bổ sung sửa đổi trên của Điều 260 BLHS năm 2015 là phù hợp và đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, do đó sẽ tạo điều kiện cho các cơ quan pháp luật xử lý có hiệu quả đối với các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, góp phần bảo đảm giữ gìn trật tự an toàn giao thông đường bộ.

Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, những sửa đổi về kết cấu khung khoản của điều luật này cần có hướng dẫn để áp dụng cho thống nhất trong thực tiễn. Cụ thể như sau:

Điều 260 BLHS 2015 quy định:

“1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tiền…, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt từ từ 01 năm đến 05 năm:

 a) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

……

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

a)Không có giấy phép lái xe theo quy định;

......

3. phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a)Làm chết 03 người trở lên;

...

4. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% … thì bị phạt tiền… hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”

Có thể thấy kết cấu điều luật là chưa thực sự phù hợp, dường như khoản 1 là cấu thành cơ bản, khoản 2, 3 là cấu thành tăng nặng nhưng tới khoản 4 dường như cũng là cấu thành cơ bản(chứ không phải là cấu thành giảm nhẹ). Kết cấu điều luật như trên đã gây ra những cách hiểu và áp dụng pháp luật khác nhau, khó xác định đâu là cấu thành cơ bản. Bởi vì thông thường, một người khi  phạm tội ở khoản 1(là cấu thành cơ bản) và có một trong những tình tiết định khung ở khoản 2 sẽ phạm vào khoản 2 của điều luật.

Sẽ không có vấn đề gì nếu trường hợp người tham gia giao thông, vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của 01 người, với tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% và không phạm vào một trong những tình tiết định khung tăng nặng của khoản 2. Khi đó người đó sẽ bị xem xét xử lý theo khoản 4 của điều luật và được hiểu là, đã có sửa đổi bổ sung thêm một cấu thành giảm nhẹ trong điều luật để xử lý cho trường hợp này với mức án nhẹ hơn khoản 01 của điều 202 luật cũ.

Nhưng đặt giả sử trong trường hợp người tham gia giao thông vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ, nhưng không có giấy phép lái xe theo quy định thì giải quyết thế nào cho đúng? Khi đó chuyển khung sang khoản 01 hay khoản 02 của điều luật? Nếu theo tuần tự thì phải chuyển khung sang khoản 01, vì quy định nặng hơn liền kề so với khoản 04 của điều luật. Nhưng khoản 01 thì không có các cấu thành tăng nặng ở đó. Vậy chẳng lẽ bỏ qua khoản 01 chuyển tăng nặng thẳng sang khoản 02 của điều luật luôn chăng? Hay điều luật này có hai khung cơ bản là khoản 01 và khoản 04? khi đó một người phạm vào một trong hai khoản này (khoản 01 và khoản 04), mà có tình tiết định khung tăng nặng ở khoản 02 là đều chuyển khung sang khoản 2 chăng. Về vấn đề này, hiện có một số quan điểm áp dụng pháp luật như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Theo quy định của điều luật thì khoản 4 là cấu thành cơ bản của điều luật, vì nó quy định các yếu tố cấu thành cơ bản như tại khoản 1 của điều luật nhưng có hình phạt nhẹ hơn quy định của khoản 1 mà thôi.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Khoản 1 của  điều luật là cấu thành cơ bản, chỉ khi một người có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản được quy định tại khoản 1 của điều luật mà lại có những tình tiết định khung tăng nặng quy định ở khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật thì sẽ phạm vào khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật. Còn khoản 4 là cấu thành giảm nhẹ, vì không thể từ khoản 4 chuyển khung thẳng vào khoản 2,3 mà bỏ qua khoản 1 của điều luật được.

Quan điểm thứ ba cho rằng: Với kết cấu và cách hành văn của điều luật, thì một người khi có đủ các yếu tố định khung cơ bản quy định tại khoản 1 hoặc khoản 4 của điều luật, mà lại có những tình tiết định khung tăng nặng quy định ở khoản 2 hoặc khoản 3 thì sẽ phạm vào khoản 2 hoặc khoản 3 của điều luật (Như vậy theo quan điểm này thì ở điều luật này có tới hai khung cơ bản, hai cấu thành cơ bản?).

Ngày Bộ luật hình sự 2015 có hiệu lực thi hành đã đến gần, hơn nữa nếu so sánh giữa điều 202 của luật cũ và điều 260 của luật mới thì điều 260 có quy định nhẹ hơn. Do đó, theo nghị quyết 109 của Quốc hội về thi hành Bộ luật hình sự 2015 thì những quy định có lợi, tình tiết có lợi của luật mới được áp dụng ngay sau khi luật được công bố. Vì vậy, để nhận thức và áp dụng pháp luật được đúng đắn và thống nhất, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao thông đường bộ, rất mong sớm có sự hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, của liên ngành tư pháp trung ương để việc áp dụng điều luật trên trong thực tiễn được thuận lợi và thống nhất, không làm oan, không bỏ lọt tội phạm.

 

Nguyễn Duy Soạn - Viện trưởng Viện KSND huyện Chương Mỹ -TP. Hà Nội

Bài viết trước Điểm mới về khởi tố, hỏi cung bị can, đối chất và nhận dạng của Bộ luật TTHS 2015
Bài viết tiếp theo Khởi tố hay không khởi tố?
In
5075 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều