MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VỀ THQCT, KIỂM SÁT XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HSST

Huỳnh Phương Linh

             Phần xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn vô cùng quan trọng, ảnh hưởng to lớn đến sự tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân; đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, chỗ ở của công dân… Tố tụng hình sự của nước ta đang áp dụng theo mô hình “Tố tụng hình sự thẩm vấn” trên cơ sở kế thừa và phát triển những yếu tố tích cực của mô hình “Tố tụng hình sự thẩm vấn” và kết hợp có chọn lọc những mặt tích cực của mô hình “Tố tụng hình sự tranh tụng” như tính bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Pháp luật hình sự nước ta quy định việc xét hỏi phải được trực tiếp, bằng lời nói, liên tục trừ thời gian nghỉ và chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa để kết tội người thực hiện hành vi phạm tội (bị cáo); Đặc biệt Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 còn quy định nguyên tắc “Suy đoán vô tội”. Với trách nhiệm quan trọng mà pháp luật đã trao cho Viện kiểm sát, nhất là Kiểm sát viên trực tiếp tham gia thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng hành trang về kiến thức pháp luật, ý thức được trách nhiệm của công tố thay mặt Nhà nước buộc tội bị cáo trước phiên tòa. Giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa, đòi hỏi Kiểm sát viên phải thực hiện theo 02 (hai) bước chính là đọc bản cáo trạng và xét hỏi.

             - Một là Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng: Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng là đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa, là kết thúc phần thủ tục và chuyển sang xét hỏi. Chủ tọa phiên tòa đề nghị Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và khởi nguồn cho giai đoạn xét hỏi, đòi hỏi Kiểm sát viên trước khi đứng dậy đọc bản cáo trạng phải quan sát các bị cáo đã đứng đúng vào vị trí chưa (vành móng ngựa)? bị cáo chuẩn bị nghe đọc bản cáo trạng chưa? Vì việc bị cáo đứng vào vành móng ngựa nghe Kiểm sát viên đọc cáo trạng là quy định bắt buộc của pháp luật, thể hiện sự trang nghiêm của phiên tòa, quy định của pháp luật được thực thi nghiêm túc, công khai; đồng thời thể hiện quyền uy của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đấu tranh và phòng chống tội phạm.

             Kiểm sát viên khi đọc bản cáo trạng phải rõ ràng, ràng mạch và phải đọc nguyên văn bản cáo trạng. Sau khi đọc xong bản cáo trạng nếu Kiểm sát viên thấy cần trình bày ý kiến bổ sung thì phải căn cứ vào quy định Điều 206 Bộ luật TTHS để trình bày bổ sung. Việc trình bày bổ sung của Kiểm sát viên chỉ có ý nghĩa trong việc làm sáng tỏ thêm nội dung bản cáo trạng, giải thích làm rõ hơn nội dung cáo trạng đã phản ánh; lời giải thích của Kiểm sát viên không được thêm, không được bớt đi nội dung hoặc làm thay đổi nội dung bản cáo trạng.

               - Hai là xét hỏi: Hội đồng xét xử (viết tắt là HĐXX) tiến hành xét hỏi sau khi Kiểm sát viên đọc xong bản cáo trạng. Pháp luật quy định HĐXX phải xét hỏi từng người tham gia tố tụng; thứ tự xét hỏi Chủ tọa phiên tòa hỏi trước, tiếp theo là Hội thẩm nhân dân, sau đó mới đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.

               Khi Chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán tham gia phiên tòa (trường hợp HĐXX là 05 người), Hội thẩm nhân dân xét hỏi thì Kiểm sát viên phải nhanh chóng lắng nghe và ghi chép những câu hỏi của Chủ tọa phiên tòa, Thẩm phán tham gia phiên tòa (nếu có), Hội thẩm nhân dân và những câu trả lời của những người tham gia tố tụng. Việc xét hỏi của Kiểm sát viên được thực hiện khi Chủ tọa phiên tòa đề nghị Kiểm sát viên tham gia xét hỏi. Kiểm sát viên cần xét hỏi người tham gia tố tụng (bị cáo, bị hại hay người làm chứng...) thì phải đề nghị Chủ tọa phiên tòa và được Chủ tọa phiên tòa đồng ý cho phép thì Kiểm sát viên mới được tiến hành xét hỏi. Khi Kiểm sát viên tiến hành xét hỏi cần phải nhìn thẳng vào đối tượng, hỏi về các tình tiết mà HĐXX chưa xét hỏi (tránh hỏi trùng lặp những vấn đề, nội dung mà HĐXX đã xét hỏi) để nhằm mục đích thỏa mãn các yếu tố buộc tội bị cáo. Hoặc xét hỏi bổ sung các tình tiết mà mà HĐXX xét hỏi chưa đầy đủ, còn có mâu thuẫn với nhau giữa lời khai của các bị cáo, lời khai của người bị hại, người làm chứng, các tình tiết khác trong vụ án...

                 Đáng chú ý: khi HĐXX xét hỏi, Kiểm sát viên cần phải nghe và đối chiếu với bản dự thảo đề cương xét hỏi (còn gọi là kế hoạch xét hỏi), các nội dung tình tiết mà HĐXX xét hỏi trùng với nội dung của dự thảo đề cương xét hỏi thì Kiểm sát viên đánh dấu để nhằm mục đích tránh việc xét hỏi trùng lặp. Kiểm sát viên phải căn cứ vào diễn biến xét hỏi của HĐXX để bổ sung những vấn đề cần xét hỏi vào dự thảo đề cương xét hỏi để tránh bị bỏ sót.

                Bộ luật Tố tụng hình sự (viết tắt là: Bộ luật TTHS) quy định trong quá trình xét hỏi, Kiểm sát viên có thể thực hiện 02 (hai) quyền: Quyền thứ nhất là công bố các lời khai của những người tham gia tố tụng (bị cáo, người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp) do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập hợp pháp trong giai đoạn tiến hành tố tụng và các tài liệu khác được thu thập hợp pháp đã được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đưa vào hồ sơ vụ án. Khoản 2, Điều 4 của Quy định về lập hồ sơ kiểm sát án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 590/QĐ-VKSTC-V3 ngày 05 tháng 12 năm 2014 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành có quy định: Tài liệu điều tra trích hoặc photo các biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, khám nghiệm tử thi… photo một số bản tường trình, tự khai, tự thú, lời khai của bị can; lời khai của người làm chứng, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan… do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát lập. Để đảm bảo tính chính xác, Kiểm sát viên phải sử dụng lời khai, tài liệu đã photo, sao chụp để công bố. Quyền thứ hai là đề nghị Chủ tọa phiên tòa công bố lời khai, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, các tình tiết buộc tội, tăng nặng, giảm nhẹ, nhưng thường là trong trường hợp cần thiết và tài liệu trong hồ sơ kiểm sát của Kiểm sát viên là tài liệu trích cứu. Trường hợp phiên tòa có đồng công tố (hai Kiểm sát viên cùng tham gia) thì giữa hai Kiểm sát viên phải có sự phân công để xét hỏi cho phù hợp thống nhất, tránh sự chồng chéo.

                + Xét hỏi bị cáo: Khi xét hỏi, Kiểm sát viên chú ý cách gọi: bị cáo; đặt câu hỏi: bị cáo cho biết... cách gọi phải thể hiện sự trang nghiêm và mang tính văn hóa tại phiên tòa. Xét hỏi của Kiểm sát viên có điểm khác biệt so với xét hỏi của HĐXX là Thẩm phán xét hỏi trước, sau đó mới đến Hội thẩm nhân dân xét hỏi và việc xét hỏi của HĐXX để làm căn cứ để đánh giá các tình tiết của vụ án, phục vụ cho việc kết luận khi tiến hành nghị án. Còn việc xét hỏi của Kiểm sát viên được thực hiện sau khi có đề nghị của Chủ tọa phiên tòa, xét hỏi của Kiểm sát viên thường ngắn gọn, đặt ngay câu hỏi để bị cáo trả lời, tập trung vào những tình tiết mà HĐXX chưa đề cập đến, khai báo còn mâu thuẫn và là cơ sở để Kiểm sát viên kết luận bị cáo thực hiện hành vi phạm tội.

             Trường hợp bị cáo phản cung, không thừa nhận lời khai nhận tội tại Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên tập trung vào việc làm rõ động cơ bị cáo phản cung, công bố bản tường trình bị cáo đã tự viết khai nhận hành vi phạm tội trước Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, yêu cầu bị cáo trả lời lý do khai báo khác; tập trung hỏi những người tham gia tố tụng khác cũng như xem xét vật chứng, tài liệu khác để xác định lời khai của bị cáo tại phiên tòa là thật hay gian dối để trốn trách nhiệm do bị cáo gây ra; việc xét hỏi của Kiểm sát viên trong trường hợp này được thực hiện theo hướng buộc tội và bảo vệ bản cáo trạng của Viện kiểm sát.

              + Hỏi những người tham gia tố tụng khác (như: người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp pháp, người làm chứng, người giám định): khi hỏi người tham gia tố tụng khác (trừ luật sư bào chữa) thì Kiểm sát viên sử dụng các từ xưng hô như: ông, bà, anh, chị. Câu hỏi của Kiểm sát viên đối với những người này nhằm mục đích làm sáng tỏ hơn nữa về các tình tiết của vụ án để phục vụ cho việc buộc tội; hỏi người bị hại, đại diện người bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan về quan điểm đề nghị xử lý về hình sự, dân sự để làm căn cứ chuẩn bị cho luận tội ở phần tranh tụng. Thực chất việc chủ động xét hỏi của Kiểm sát viên đối với những người tham gia tố tụng là để bổ sung cho những tình tiết mà HĐXX xét hỏi chưa đầy đủ hoặc chưa hỏi.

             Ngoài việc hỏi trực tiếp của Kiểm sát viên tại phiên tòa thì Kiểm sát viên còn có quyền nhận xét vật chứng được đưa đến để xem xét tại phiên tòa; trình bày nhận xét của mình về nơi xảy ra tội phạm; nhận xét về kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ sung, yêu cầu giám định lại nếu thấy kết luận giám định chưa đầy đủ hoặc không khách quan; hỏi bổ sung sau khi người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi xong, nếu thấy cần thiết cho việc buộc tội, xử lý về dân sự hoặc để khẳng định thêm một lần nữa về kết luận của Kiểm sát viên đối với vụ án.

             Trên đây là một số nguyên tắc cơ bản trong việc thực hành quyền công tố, kiểm sát xét hỏi tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Rất mong có sự bổ sung đóng góp của bạn đọc cùng đồng nghiệp để ngày càng hoàn thiện và đáp ứng hơn nữa yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.

                                                                

                                                Đỗ Minh Tuấn - Phó Chánh Thanh tra Viện KSND thành phố Hà Nội

Bài viết trước Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện KSND trong kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo Luật thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015
Bài viết tiếp theo Trao đổi về phát biểu của Kiểm sát viên theo Điều 262 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
In
2854 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều