Một số lưu ý khi áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ trong giai đoạn điều tra, truy tố sau đó trả tự do không xử lý hình sự và những bất cập trong quá trình thực hiện
Năm 2024, công tác kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, bắt tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra, truy tố của Viện KSND hai cấp thành phố Hà Nội tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực, qua đó góp phần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Ngành.
Trong thời gian qua, có 16 trường hợp bắt tạm giữ sau đó trả tự do không xử lý hình sự gồm: 9 trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, 7 trường hợp bắt quả tang, đầu thú, tự thú, truy nã… Một số các dạng điển hình như sau:
1. Đối tượng khai nhận có mua bán ma túy tuy nhiên tại thời điểm bắt giữ đối tượng chưa nhận ma túy, chưa chuyển giao tiền để mua ma túy, xét nghiệm ma túy trong nước tiểu của đối tượng cho kết quả “âm tính” nên không có căn cứ xử lý về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, không có căn cứ xử lý hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma tuý”.
2. Đối tượng tên có hành vi trộm cắp tiền của người bị hại là người nước ngoài, sau khi đối tượng đến đầu thú thì người bị hại đã về nước, tài sản bị mất trộm theo lời khai của đối tượng và theo đơn trình báo của người bị hại không trùng khớp với nhau… nên chưa đủ căn cứ khởi tố bị can đối với đối tượng. Hiện trường hợp này vẫn đang chờ xử lý bởi bị hại sau thời điểm đó chưa quay trở lại Việt Nam.
3. Những đối tượng là nhân viên của quán karaoke, quán ăn, nhà nghỉ… có hành vi giúp sức cho đối tượng khác trong việc chuẩn bị đĩa sứ, ống hút và các phương tiện khác để sử dụng ma túy. Hiện vẫn còn có những quan điểm khác nhau của các Cơ quan tiến hành tố tụng về quan điểm xử lý đối với đối tượng thụ hưởng hoặc nhân viên quán hát được gọi vào để phục vụ việc sử dụng trái phép chất ma túy như hỗ trợ xào ke … Trong khi, Cơ quan điều tra xác định đối tượng là đồng phạm giúp sức trong việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nhưng quan điểm của VKS, Tòa án thì xác định đối tượng có dấu hiệu đồng phạm giúp sức nhưng xét tính chất, vai trò thì không cần thiết phải xem xét xử lý hình sự. Hiện đang tạm đình chỉ việc giải quyết để chờ kết quả họp 03 ngành nội chính thành phố Hà Nội.
4. Các đối tượng là đối tượng liên quan trong vụ án Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nhiều đối tượng. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tạm giữ để đánh giá, phân loại hành vi phạm tội. Trong quá trình tạm giữ, Cơ quan điều tra xác định đối tượng thụ hưởng sử dụng trái phép chất ma túy, không có hành vi đồng phạm với các đối tượng khác về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Xác định các đối tượng trên có hành vi vi phạm nhưng không phải là tội phạm nên nên Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trả tự do và Xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm trên.
5. Đối tượng có hành vi dùng dao gây thương tích cho bị hại với tỉ lệ phần trăm thương tật là 6%. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tạm giữ và gia hạn tạm giữ lần 1 đối với đối tượng về hành vi Cố ý gây thương tích. Trong thời gian tạm giữ, người bị hại đã rút đơn yêu cầu khởi tố nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và quyết định trả tự do cho đối tượng.
Khó khăn, vướng mắc:
Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn giữ vai trò quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, đảm bảo việc điều tra, truy tố được thuận lợi. Do đó, khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn phải tuân thủ các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nhằm đảm bảo việc bắt, tạm giữ, tạm giam của cơ quan điều tra và các quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát đều có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, không bắt oan, sai, bỏ lọt tội phạm và hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp bắt giữ sau đó trả tự do, không xử lý hình sự .
Thực tiễn cho thấy, việc áp dụng các biện pháp này gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là các trường hợp theo yêu cầu phải giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Một trong những thách thức lớn nhất mà các cơ quan điều tra thường gặp là việc chậm có kết luận giám định từ các cơ quan chuyên môn. Kết luận giám định là một căn cứ pháp lý quan trọng, giúp xác định rõ hành vi của đối tượng có cấu thành tội phạm hay không, là cơ sở cho việc có hay không áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Trên thực tế, việc giám định thường kéo dài do sự phức tạp của các mẫu vật cần phân tích, như trong các vụ án liên quan đến chất ma túy hay chất cấm, khi hiện nay đã có rất nhiều loại ma túy mới, ma túy tổng hợp được đưa ra tiêu thụ bên cạnh các loại ma túy truyền thống như Heroine. Ngoài ra, số lượng các vụ việc cần giám định thường rất lớn, trong khi các cơ quan giám định lại gặp khó khăn về nguồn lực, bao gồm cả trang thiết bị và nhân sự chuyên môn, dẫn đến việc không thể cung cấp kết quả giám định một cách kịp thời. Chính sự chậm trễ này khiến cho quá trình điều tra bị kéo dài, làm giảm hiệu quả của công tác điều tra và xử lý tội phạm. Thực tế điều tra cho thấy, có nhiều vụ việc khi đấu tranh, khai thác các đối tượng đều khai nhận hành vi phạm tội nhưng do chưa có kết luận giám định nên không đủ căn cứ để phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.
Đối với những vụ án có nhiều đối tượng, khai báo gian dối, lời khai giữa các đối tượng còn nhiều mâu thuẫn hoặc không hợp tác với cơ quan điều tra, cần có thời gian để thu thập tài liệu, chứng cứ, đối chất.... để xác minh, làm rõ sự thật vụ án vụ án. Do thời gian thu thập chứng cứ gấp nên gây khó khăn trong việc quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn hoặc khi đã áp dụng biện pháp ngăn chặn nhưng sau đó phải trả tự do vì không đủ căn cứ để xử lý hình sự.
Thời gian thu thập chứng cứ gấp, kết luận giám định không kịp thời, căn cứ vào quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thời hạn dẫn đến có các trường hợp bị giữ sau đó phải được trả tự do, gây ra nhiều hệ lụy không chỉ đối với uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng mà còn có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền tự do cá nhân của người bị giữ. Cụ thể:
Tại khoản 4 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2021 quy định “Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn”.
Tại khoản 1 Điều 114 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “1. Sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị giữ, bị bắt, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 12 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt....”.
Tại khoản 4 Điều 117 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “..4. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi ra quyết định tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ phải gửi quyết định tạm giữ kèm theo các tài liệu làm căn cứ tạm giữ cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền. Nếu xét thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.”.
Như vậy, trường hợp sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang, Cơ quan có thẩm quyền điều tra có thể trả tự do cho người bị giữ, người bị bắt chứ không ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ. Lúc này, Cơ quan điều tra không phải thông báo, không phải gửi hồ sơ trả tự do cho Viện kiểm sát. Các trường hợp này, Viện kiểm sát rất khó nắm được thông tin kịp thời để kiểm sát việc Cơ quan có thẩm quyền điều tra đã giữ người, bắt người phạm tội quả tang, cũng như trả tự do cho người bị giữ, người bị bắt có căn cứ và hợp pháp hay không. Điều này có thể dẫn đến bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị giữ, người bị bắt.
Để nâng chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, Viện KSND thành phố Hà Nội đề xuất một số phương hướng, giải pháp và kiến nghị như sau:
Để tiếp tục phát huy kết quả đạt được và thực hiện tốt hơn nhiệm vụ trong thời gian tới, trên cơ sở thực tiễn hoạt động kiểm sát, VKSND thành phố Hà Nội đề xuất một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt đến Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, công chức khác thực hiện nghiêm túc nội dung tại Nghị quyết của Đảng và Quốc hội; quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 06/CT-VKSTC ngày 06/01/2013 của Viện KSND tối cao về “Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm”; Chỉ thị số 04/CT-VKSTC ngày 10/7/2015 của Viện KSND tối cao về “Tăng cường các biện pháp phòng, chống oan, sai và nâng cao trách nhiệm trong giải quyết bồi thường thiệt hại cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự” để từng cán bộ, kiểm sát viên nhận thức đúng đắn, đầy đủ về công tác chống oan, sai trong áp dụng các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự. Đồng thời, căn cứ vào nội dung phối hợp kiểm sát, Viện kiểm sát cần chủ động nghiên cứu, xây dựng quy trình, kỹ năng cụ thể để Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thuộc cấp mình quản lý thực hiện bài bản, thống nhất. Lãnh đạo đơn vị, Viện kiểm sát cấp trên phải thường xuyên kiểm tra, rút kinh nghiệm về nghiệp vụ đối với hoạt động này nhằm mục đích nâng cao chất lượng kiểm sát, hạn chế những vi phạm, thiếu sót tránh trường hợp phát sinh hậu quả có lỗi của Viện kiểm sát.
Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật chuyên ngành để áp dụng một cách thống nhất các quy định về việc bắt, tạm giữ, tạm giam. Bên cạnh đó cần có hướng dẫn cụ thể căn cứ giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam theo điều 110, 118, 119 Bộ luật tố tụng hình sự tránh trường hợp lạm dụng việc giữ, bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam qua đó đảm bảo quyền con người, quyền công dân.
Thứ ba, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực công tác kiểm sát nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay.
Thứ tư, tăng cường nghiên cứu các căn cứ pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đồng thời tăng cường hướng dẫn, tổ chức các khóa nâng cao trình độ cán bộ, công chức trong công tác kiểm sát bắt, tạm giữ, tạm giam để bồi dưỡng kiến thức, nâng cao trình độ. Đề cao trách nhiệm của KSV trong việc nghiên cứu hồ sơ đề nghị phê chuẩn lệnh bắt, gia hạn tạm giữ, tạm giam. KSV khi được phân công nghiên cứu, đề xuất việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam cần nghiên cứu kỹ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ đã thu thập được. Nếu thấy chưa đủ căn cứ thì kiên quyết yêu cầu CQĐT bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ trước khi đề xuất phê chuẩn các quyết định tố tụng, bảo đảm việc phê chuẩn có căn cứ và đúng pháp luật. Đối với các trường hợp không có căn cứ áp dụng, phải kịp thời tham mưu báo cáo đề xuất lãnh đạo đơn vị từ chối phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định của CQĐT; kiên quyết không phê chuẩn khi không đủ căn cứ theo quy định pháp luật; phối hợp chặt chẽ với ĐTV để phân loại đối tượng trước khi quyết định áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam. Quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn, cần thực hiện nghiêm chỉnh việc báo cáo đề xuất phê chuẩn theo đúng quy chế nghiệp vụ của ngành. Báo cáo đề xuất phải nêu rõ căn cứ áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp ngăn chặn, quan điểm đề xuất của KSV và ý kiến của Lãnh đạo đơn vị.
Thứ năm, Viện kiểm sát tiếp tục chủ động phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thực hiện các hoạt động nghiệp vụ để cùng hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành. Định kỳ tổ chức họp liên ngành để rút kinh nghiệm những vi phạm, hạn chế trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, thống nhất đề ra các giải pháp nhằm khắc phục vi phạm, tháo gỡ vướng mắc đồng thời kiên quyết thực hiện đúng các quy định của pháp luật, tránh tình trạng quan hệ xuôi chiều, nể nang, né tránh. Có cơ chế kiểm tra liên ngành đối với việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử để kịp thời phát hiện những thiếu sót, tồn tại để chấn chỉnh, khắc phục ngay. Duy trì việc sơ kết, tổng kết việc thực hiện quy chế phối hợp liên ngành nhằm đánh giá những việc làm được, chưa làm được, phân tích rõ nguyên nhân tồn tại để đưa ra hướng giải quyết.
Thứ sáu, Công tác cán bộ cần phải được quan tâm xem xét vì hiện nay số lượng cán bộ, Kiểm sát viên còn ít trong khi đó khối lượng công việc giải quyết lại nhiều cho nên cần phải bổ sung thêm biên chế cho những đơn vị có số lượng đối tượng đông. Bố trí Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phụ trách hoạt động này phải là người có kinh nghiệm kiểm sát, kiến thức về pháp luật tố tụng hình sự và tạm giữ, tạm giam; tận tâm, tỉ mỉ và trách nhiệm với công việc, kịp thời phát hiện và tham mưu giải quyết các vụ việc phát sinh; bố trí đầy đủ số lượng Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phụ trách kiểm sát phù hợp tình hình thực tế, khối lượng công việc và không ảnh hưởng đến các hoạt động khác của đơn vị.
Ngọc Huy – Phòng 8