Bàn về việc phân định tội Cướp tài sản hay Cưỡng đoạt tài sản trong giải quyết vụ án hình sự
Tội Cướp tài sản và tội Cưỡng đoạt tài sản là hai tội danh thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu. Mặc dù, hai tội danh này đã được Bộ luật Hình sự (BLHS) và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành, tuy nhiên trong thực tiễn việc điều tra, truy tố, xét xử hai tội danh này vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
Quy định của pháp luật:
Theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật Hình sự tội Cướp tài sản, quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản".
Khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự tội Cưỡng đoạt tài sản, quy định: “Người nào de dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt tài sản”.
Về mặt cấu thành tội phạm của hai tội danh cơ bản có nhiều nội dung giống nhau, tuy nhiên xét trong bản chất hành vi phạm tội có nhiều điểm khác nhau nên việc định tội danh cũng có nhiều quan điểm, đánh giá khác nhau.
Ví dụ: K có quen biết với H. Do cần tiền chi tiêu cá nhân nên trong khoảng thời gian từ ngày 11/11/2022 đến ngày 09/01/2023, K đã 04 lần vay tiền của H với tổng số tiền là 30.000.000đồng, thỏa thuận lãi suất 5000đồng/1.000.000đồng/01 ngày, tiền lãi 01 tháng sẽ được cắt trước khi giải ngân khoản vay, không thỏa thuận thời gian trả gốc.
Đến khoảng tháng 02/2023, K không có khả năng trả nợ 30.000.000đồng và xin trả dần nhưng H không đồng ý và nhiều lần gọi điện yêu cầu K trả tiền nhưng K không trả và tránh mặt. H đã nhiều lần về nhà K tìm K để đòi nợ nhưng không gặp. H có thông báo với bà L (mẹ đẻ K) việc K vay tiền và không trả nhưng bà L từ chối việc trả tiền thay cho K. Để gây sức ép cho K phải trả tiền nên giữa tháng 4/2023, H in nhiều tờ giấy khổ A5 có nội dung truy tìm K, viết nhiều bài trên mạng xã hội Facebook và in ảnh chân dung của K, số điện thoại ở nhiều nơi với mục đích đòi tiền. Đến khoảng tháng 7/2023, thông qua quan hệ xã hội, H biết chỗ K đang làm việc. Ngày 20/7/2023, H nói với bạn là Đ về việc K đang nợ số tiền 30.000.000 đồng nhưng không trả mà bỏ trốn và đã rủ Đ đi cùng tìm K để đòi nợ, Đ đồng ý, H gửi ảnh của K cho Đ để nhận diện. Trưa ngày 20/7/2023, Đ điều khiển xe máy chở H đến đầu ngõ chỗ K làm việc, sau đó H và Đ đi bộ vào chỗ làm của K. Tại đây, H gọi K ra ngoài nói chuyện. Khi K vừa cùng cả H và Đ đi ra đến trước cổng nhà nơi K làm việc, Đ bất ngờ dùng tay phải đấm một cái vào mặt K làm K choáng ngã ra đất, mũi chảy máu, đồng thời Đ chửi: “Đ.mẹ mày láo với anh tao à”. Thấy vậy, H đẩy Đ ra và bảo Đ đi mua bông băng về lau vết thương cho K. Sau đó, H đòi K số tiền 30.000.000đồng, K xin khất nợ và hứa đến Tết sẽ trả đủ tiền cho H. H đồng ý và cùng Đ ra về. Trước khi về, Đ tiếp tục đe dọa K: “Mày không trả tao đánh mày xanh cỏ”. Tại Bệnh viện xác định thương tích của K như sau: gãy xương chính mũi - tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 09%. Do sợ H tiếp tục đến đánh để đòi nợ nên tối cùng ngày K đã vay mượn và chuyển khoản trả cho H số tiền 30.000.000đồng. Ngày 24/7/2023, K đã đến Cơ quan Công an để trình báo sự việc.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hành vi của H, Đ phạm tội Cướp tài sản Điều 168 Bộ luật Hình sự bởi: Do K vay của H 30.000.000đồng không trả và có dấu hiệu trốn tránh nên ngày 20/7/2023, H rủ Đ cùng đi tìm và đòi nợ K. Khi H và Đ gặp K, Đ đã chửi và đấm K chảy máu mũi. K đi khám thương và xác định bị thương tích 09%. Mặc dù, H và Đ không bàn bạc nhau trước về việc đánh K để đòi nợ nhưng ngay sau khi Đ đánh K, H chứng kiến và liền sau đó H đòi tiền K. Hành động này của H và Đ làm cho K tê liệt ý chí, lo sợ. Thực tế, tại chỗ Khải không có tiền trả H ngay xong tối về K đã phải đi vay mượn trả đủ cho H số tiền 30.000.000đồng vì sợ sẽ tiếp tục bị đánh.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Hành vi của H và Đ phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”, quy định tại Điều 170 Bộ luật Hình sự, bởi: H và Đ không có sự thống nhất bàn bạc trước đó về việc sử dụng vũ lực đề đòi tiền K. Khi hai bên gặp nhau, Đ bất ngờ dùng vũ lực đối với K mục để đe dọa bị hại, sau khi H và Đ cùng sơ cứu vết thương cho K xong, H có thông báo và đòi K về số tiền nợ. Do không có tiền trả nên K xin khất nợ và được H đồng ý. Như vậy, H và Đ đồng phạm về hành vi dùng thủ đoạn gọi điện, gặp gia đình K, đăng thông tin… để đòi tiền nợ của K và được K đồng ý trả nợ. K không bị lâm vào tình trạng không thể chống cự được, H và Đ cũng không lập tức chiếm đoạt tài sản của K hay buộc K phải giao ngay tài sản mà cho đến tối ngày 20/7/2023, do lo sợ nên K đã chuyển khoản trả cho H số tiền 30.000.000 đồng.
Qua các quan điểm trên, tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi: Trên thực tế, số tiền nợ giữa K và H là có thật, do K không trả nợ mà trốn tránh. Ngày 20/7/2023, H, Đ không có lời nói thể hiện ý thức chiếm đoạt và chưa chiếm được tài sản gì của K. Tối ngày 20/7/2023, do lo sợ nên K đã chuyển khoản trả cho H số tiền 30.000.000 đồng. Hành vi của H và Đ đủ yếu tố cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật Hình sự;
Như vậy, có thể thấy cùng một nội dung vụ án nhưng lại có rất nhiều quan điểm đánh giá khác nhau trong việc định tội danh. Vì vậy các cơ quan tiến hành tố tụng cần sớm có văn bản hướng dẫn rõ ràng, cụ thể về vấn đề này để thống nhất áp dụng.
Mong nhận được nhiều ý kiến tranh luận của đồng nghiệp và bạn đọc.
Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Kim Ngân - Viện KSND quận Ba Đình