Một số kỹ năng áp dụng pháp luật khi giải quyết các vụ án Kinh doanh thương mại

Nguyễn Thành Lâm

       Để thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật khi giải quyết các vụ án Kinh doanh thương mại (KDTM), bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc KDTM đúng pháp luật, tác giả xin nêu một số vấn đề cần lưu ý khi được nghiên cứu hồ sơ án KDTM.

       1. Xác định tư cách tham gia tố tụng của khi đương sự

       * Quá trình kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm; nghiên cứu 1 số hồ sơ KDTM thấy rằng tại một số đơn vị Tòa án, Viện kiểm sát vẫn xác định sai tư cách tham gia tố tụng đối với đương sự là Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) hoặc Hộ kinh doanh cá thể.

       Khoản 3 Điều 185 Luật Doanh nghiệp quy định: “Chủ doanh nghiệp tư nhân là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài hoặc Tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp.

       Đối với Hộ kinh doanh cá thể: Trên cơ sở Giấy chứng nhận Đăng ký kinh doanh, Tòa án và Viện kiểm sát ghi rõ Tên chủ hộ kinh doanh như trên đăng ký.

       VD 1: Bản án KDTM số 01/KDTM-ST ngày 10/3/2017 của TAND huyện A xác định bị đơn là Hộ kinh doanh Ngô Văn Hoàng là không đúng theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (GCN ĐKKD), Tòa án phải xác định bị đơn: là ông Ngô Văn Hoàng – chủ hộ kinh doanh Ngô Văn Hoàng.

       VD 2: Bản ánsố 06/KDTM-ST ngày 31/5/2017 của TAND quận H xác định bị đơn là DNTN Thúy Thắng là không đúng bởi trường hợp này bị đơn phải là Bà Phùng Thị Kim Thúy – chủ DNTN Thúy Thắng.

       * Về việc xác định tư cách tham gia tố tụng khi ngân hàng bán khoản nợ của Công ty cho Công ty TNHH một thành viên quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), hợp đồng mua bán nợ tuân thủ quy định pháp luật. Trường hợp này VAMC là chủ sở hữu khoản nợ tín dụng của công ty và tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn khởi kiện vụ án tranh chấp HĐTD (Khoản 4 Điều 74; Điều 186 BLTTDS).

       2. Lưu ý trong trường hợp Doanh nghiệp chuyển đổi hình thức từ DNTN sang Công ty TNHH, CTCP…

       Theo quy định tại khoản 1 Điều 141 Luật Doanh nghiệp: DNTN là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”, DNTN không có tư cách pháp nhân nên chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm toàn bộ tài sản cá nhân đối với các hoạt động của doanh nghiệp tư nhân và tham gia tố tụng trong các vụ án với tư cách chủ doanh nghiệp chứ không phải với tư cách DNTN.

       Thực tế có 1 số vụ án tín dụng được xác lập giữa ngân hàng và DNTN (Ngân hàng và DNTN giao kết hợp đồng và giải ngân theo thỏa thuận); quá trình kinh doanh DNTN chuyển đổi hình thức kinh doanh sang các hình thức Công ty cổ phần, Công ty TNHH…và đã được cấp đổi GCN ĐKKD, trong trường hợp này phải hết sức lưu ý tư cách tham gia tố tụng của đương sự bởi Theo quy định tại Điều 23 Nghị định 43/2010/NĐ-CP ngày 15 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp và Điều 36 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2010 hướng dẫn Luật doanh nghiệp thì một trong những hồ sơ cũng như điều kiện để chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân là:

       - Chủ doanh nghiệp tư nhân cam kết bằng văn bản chịu trách nhiệm cá nhân bằng toàn bộ tài sản của mình đối với tất cả các khoản nợ chưa thanh toán của doanh nghiệp tư nhân và cam kết thanh toán đủ số nợ khi đến hạn;

       - Chủ doanh nghiệp tư nhân có thỏa thuận bằng văn bản với các bên của hợp đồng chưa thanh lý về việc công ty trách nhiệm hữu hạn được chuyển đổi tiếp nhận và thực hiện các hợp đồng đó;

       Với quy định này, nếu đảm bảo thủ tục luật định thì Công ty TNHH là đơn vị kế thừa quyền nghĩa vụ của các khoản nợ của DNTD; trường hợp hồ sơ chuyển đổi không đảm bảo thì lúc này chủ DNTN sẽ là cá nhân chịu trách nhiệm khoản nợ của DNTN.

       VD: Vụ án Tranh chấp HĐTD giữa Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam - Bị đơn: Công ty TNHH Việt Hứa Phú Phát (chuyển từ DNTN Việt Hứa Phú Phát)

       Trong vụ án này Hợp đồng tín dụng được giao kết và giải ngân cho doanh nghiệp tư nhân mà bà Nguyễn Thị Mai là chủ doanh nghiệp ngày 29/12/2010;

       Khi ngân hàng khởi kiện (13/2/2014), DNTN đã chuyển sang hình thức công ty TNHH (chuyển đổi ngày 21/4/2011);

       Tài liệu xác minh tại Phòng ĐKKD cũng như chứng cứ đương sự cung cấp thấy rằng thời điểm 21/4/2011 làm thủ tục chuyển đổi DNTN Việt Hứa Phú Phát thành Công ty TNHH Việt Hứa Phú Phát các bên không có thỏa thuận gì về việc Công ty TNHH Việt Hứa Phú Phát tiếp nhận, thực hiện khoản nợ đối với đối với ngân hàng, do đó Công ty TNHH Việt Hứa Phú Phát không phải chịu trách nhiệm đối với khoản nợ trên với Ngân hàng VIB. Ngân hàng VIB khởi kiện Công ty THNN Việt Hứa Phú Phát là không đúng đối tượng khởi kiện. Trong trường hợp này Tòa án cần căn cứ các quy định trên và hướng dẫn cho nguyên đơn để thay đổi đối tượng khởi kiện là bà Nguyễn Thị Mai (nguyên là chủ doanh nghiệp), nếu nguyên đơn không thay đổi thì phải xử bác yêu cầu khởi kiện mới phù hợp pháp luật.      

       3. Một số lưu ý về lãi suất trong các hợp đồng tín dụng:

       Trong vụ án tín dụng thì nội dung thỏa thuận tại HĐTD là rất quan trọng, đặc biệt là các quy định về lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất, việc thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện nhưng phải phù hợp với quy định pháp luật được quy định tại Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng.

       Khi kiểm sát hồ sơ tranh chấp tín dụng, người nghiên cứu cần chú ý một số văn bản áp dụng, điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với loại hình Doanh nghiệp vừa và nhỏ; Đây là những quy định về lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng việt nam của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay để đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ một số lĩnh vực, ngành kinh tế. (Thông tư số 14 ngày 4/5/2012; Thông tư 20/2012/NHNN ngày 8/6/2012 quy định lãi suất cho vay tối đa 13%; Thông tư 33/2012/NHNN ngày 21/12/2012 lãi suất cho vay tối đa 12%; Thông tư 09/2013/NHNN ngày 25/3/2013 lãi suất tối đa 11%/năm; Thông tư 10/2013/NHNN ngày 10/5/2013 lãi suất tối đa là 10 %; Thông tư 16/2013/NHNN, Thông tư 08/2014/NHNN lãi suất cho vay tối đa là 9%; Quyết định 2174/2014/NHNN ngày 28/10/2014 lãi suất tối đa cho vay là 7%...)

       Căn cứ quy định của NHNN, căn cứ nội dung thỏa thuận của HĐTD, các khế ước nhận nợ về lãi suất cho vay ngắn hạn mà ngân hàng cấp cho doanh nghiệp (DN vừa và nhỏ), người nghiên cứu có thể xác định mức lãi suất, mức điều chỉnh lãi suất có phù hợp với quy định của NHNN. Trường hợp thấy lãi suất thỏa thuận cao hơn, cần yêu cầu ngân hàng tính lại trên cơ sở quy định của các Quyết định, Thông tư do NHNN ban hành.

       Đối với các HĐTD có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất (VD 1 tháng/1 lần, 3 tháng/1 lần; 6 tháng/1 lần), KSV phải kiểm tra bảng tính nợ gốc, nợ lãi của mỗi khế ước xem Ngân hàng có điều chỉnh lãi suất theo thỏa thuận tại HĐTD hay không (quá trình kiểm sát hồ sơ tại cấp phúc thẩm thấy rằng vẫn tồn tại 1 số hồ sơ tranh chấp HĐTD, ngân hàng không điều chỉnh lãi suất như đã thỏa thuận, chỉ áp dụng 1 mức lãi suất từ thời điểm giải ngân; do vi phạm về cách tính lãi suất dẫn đến sửa án tại cấp phúc thẩm).

       4. Đối với cách tuyên phát mại tài sản:

       - Tại một số vụ án, bên thế chấp tài sản có đưa ra yêu cầu chia kỷ phần nghĩa vụ của tài sản thế chấp trong tổng khoản nợ.

       Đối với trường hợp này, người nghiên cứu phải kiểm tra các điều khoản thỏa thuận tại Hợp đồng thế chấp (HĐTC), nếu HĐTC có thỏa thuận tài sản thế chấp đảm bảo cho giá trị khoản nợ gốc thì yêu cầu ngân hàng phải xác định khoản nợ gốc được đảm bảo bởi tài sản thế chấp + nợ lãi tương ứng.

       Trường hợp mặc dù các HĐTC đảm bảo cho khoản nợ chỉ ghi tài sản thế chấp bảo đảm cho việc thực hiện toàn bộ nghĩa vụ bao gồm gốc, lãi, các khoản phí… nhưng ngân hàng đồng ý tính tỷ phần nghĩa vụ của tài sản bảo đảm/tổng nợ gốc + nợ lãi thì có cơ sở chấp nhận (nếu đương sự khác không phản đối); trường hợp ngân hàng đề nghị phát mại tài sản theo quy định pháp luật và HĐTC thì áp dụng Điều 351 BLDS 2005; Điều 323 (BLDS 2015); khoản 7 Nghị định 163/29.12. 2006 “Trong trường hợp một nghĩa vụ dân sự được bảo đảm bằng nhiều giao dịch bảo đảm, mà khi đến hạn bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên nhận bảo đảm có quyền lựa chọn giao dịch bảo đảm để xử lý hoặc xử lý tất cả các giao dịch bảo đảm, nếu các bên không có thoả thuận khác”.

       - Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản gắn liền với đất được xử lý đồng thời với quyền sử dụng đất, trừ trường hợp giữa các bên có thỏa thuận khác. (Điều 19 Nghị định 11/22.2.2012 - nay được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 326 BLDS 2015.

       - Trong trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất và người sử dụng đất không đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được tiếp tục sử dụng đất theo như thỏa thuận giữa người sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Quyền và nghĩa vụ giữa bên thế chấp và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất được chuyển giao cho người mua, người nhận chính quyền sử dụng đất - Điều 19 Nghị định 11/22.2.2012 (nay được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 326 BLDS 2015).

       VD: Bản án sơ thẩm số 06/2017/KDTM-ST ngày 31/5/2017 của quận H tuyên trường hợp không trả được nợ thì tài sản bảo đảm được phá mại để thu hồi nợ “theo thứ tự”: ...phát mại tài sản của vợ chồng ông Thắng, bà Thúy (chủ doanh nghiệp)... trường hợp không đủ trả nợ thì phát mại tài sản đứng tên ông Phùng Trọng Ninh và bà Kiều Thị Dậu. Trong vụ án này, các Hợp đồng thế chấp tài sản được các bên thỏa thuận, ký kết và có giá trị ngang nhau theo quy định pháp luật. Bản án sơ thẩm quy định thứ tự phát mại là làm mất quyền lựa chọn việc xử lý tài sản của ngân hàng theo quy định khoản 7 Điều 351 BLDS 2005 (thời điểm giao kết hợp đồng).

       5. Trường hợp tại phiên tòa, đương sự đưa ra yêu cầu đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết, yêu cầu này không thuộc phạm vi đơn khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập thì Hội đồng xét xử không được giải quyết yêu cầu mới phát sinh này mà sẽ giành quyền khởi kiện cho đương sự trong vụ án khác.

       VD: Trong vụ án thuê tài sản của TAND huyện ĐA: Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 28/9/2017, bị đơn mới đưa ra yêu cầu nguyên đơn phải trả các khoản tiền trị giá 1.265.000.000 đồng. Căn cứ đơn khởi kiện, thông báo thụ lý và các lời khai của bị đơn tại cấp sơ thẩm thấy rằng tại giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, bị đơn không đưa ra yêu cầu này; về nội dung yêu cầu được xác định là yêu cầu bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, có căn cứ xem xét là yêu cầu phản tố quy định tại khoản 2 Điều 200 BLTTDS. Quá trình chuẩn bị xét xử bị đơn không có yêu cầu phản tố. Hội đồng xét xử sơ thẩm xem xét, giải quyết yêu cầu của bị đơn khi chưa thụ lý giải quyết và tuyên bác yêu cầu của bị đơn là không phù hợp với quy định tại Điều 5, khoản 1 Điều 244 BLTTDS 2015; Trong trường hợp này, Tòa án phải nhận định không giải quyết yêu cầu và dành cho bị đơn quyền khởi kiện trong vụ án khác khi có yêu cầu; do đó cần sửa án về cách tuyên đối với yêu cầu này.

       6. Trường hợp nguyên đơn đã có đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện; bị đơn rút yêu cầu phản tố, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quanh rút yêu cầu độc lập. Thực tế kiểm sát bản án, quyết định và hồ sơ tại cấp phúc thẩm thấy rằng rất nhiều trường hợp Hội đồng xét xử sơ thẩm lại tuyên không xem xét giải quyết đối với yêu cầu xin rút hoặc chỉ chỉ ghi nhận trong phần nhận định, không thể hiện tại phần tuyên án không phù hợp quy định của BLTTDS, dẫn đến sửa án tại cấp phúc thẩm về cách tuyên án. Theo quy định tại khoản 2 Điều 244 BLTTDS, trường hợp này, Hội đồng xét xử phải quyết định đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu xin rút mới phù hợp quy định của BLTTDS.

       Trên đây là một số vấn đề cần lưu ý khi kiểm sát hoạt động tư pháp khi giải quyết các vụ án KDTM.

Huyền Phương – Phòng 10

Bài viết trước Giới thiệu TTLT số 02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BQP ngày 01/02/2018 quy định việc đọc, ghi chép bản sao tài liệu trong TTHS.
Bài viết tiếp theo Một số kinh nghiệm trong công tác “Thụ lý án hình sự” tại Viện KSND cấp huyện
In
4402 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều