Một số kinh nghiệm của Kiểm sát viên để hạn chế trả điều ra bổ sung trong giải quyết vụ án hình sự
Trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung là một hoạt động tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử nhằm đảm bảo tính thận trọng, khách quan, toàn diện khi giải quyết một vụ án hình sự; đồng thời đảm bảo việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, tránh oan sai và không bỏ lọt tội phạm.
Mỗi Kiểm sát viên được phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự đều có một tâm lý chung là không muốn vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong bất cứ giai đoạn nào. Vì vậy cần phải tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. Để tránh việc Kiểm sát viên có lỗi trong việc trả hồ sơ vụ án hình sự để điều tra bổ sung, tác giả chia sẻ một số kinh nghiệm bản thân cũng như những kinh nghiệm tích lũy từ đồng nghiệp, từ sự chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị trực tiếp.
Thứ nhất, mỗi Kiểm sát viên được phân công thụ lý kiểm sát việc giải quyết vụ án hoặc trực tiếp kiểm sát một hoạt động tố tụng nào đó trong vụ án hình sự, cần nhận thức rõ ràng và quán triệt chính nhận thức của mình là hoạt động đó hoặc vụ án đó phải xuôi chiều theo trình tự tố tụng và không bị lặp lại, không “quay ngược lại” trình tự tố tụng, buộc phải giải quyết ngay những vấn đề mang tính thời điểm, dứt điểm, tránh việc “tặc lưỡi” cho qua để sau này khắc phục. Kiểm sát viên cần phải xác định rõ trách nhiệm là của chính mình để thực hiện chức trách và chịu trách nhiệm về kết quả giải quyết vụ án. Ví dụ như khi Kiểm sát viên thụ lý một vụ án ở bất kỳ giai đoạn nào, cần nghiên cứu toàn bộ tài liệu có trong hồ sơ, kết hợp nắm bắt các thông tin liên quan, trên cơ sở đó có một cái nhìn tổng thể, khái quát về vụ án và có một định hướng chung, hình dung chung về vụ án và có một kế hoạch kiểm sát cụ thể, yêu cầu Điều tra viên cần làm gì, bản thân cần phải tự làm gì và dự liệu những tình huống có thể xảy ra để yêu cầu Cơ quan điều tra thu thập các tài liệu, chứng cứ liên quan. Hoặc khi kiểm sát một hoạt động tố tụng cụ thể như khám nghiệm hiện trường, pháp y tử thi, thường là giai đoạn ban đầu khi phát hiện tội phạm, Kiểm sát viên cần thiết phải nắm bắt nội dung vụ việc, nắm bắt tình hình và các thông tin liên quan ngay tại hiện trường để có những yêu cầu ngay tới cơ quan điều tra, như cần thu thập dấu vết này, cần thu giữ đồ vật, tài sản, hung khí...hay ghi nhanh lời khai để thu thập thông tin và có định hướng điều tra để phán đoán có dấu hiệu tội phạm hay không, nếu có thì hành vi phạm tội gì, ai thực hiện hành vi phạm tội, có đồng phạm hay không... Bởi các hoạt động này nếu không thực hiện ngay thì sau này sẽ không thu thập được và có những chứng cứ là chứng cứ quan trọng phản ánh bản chất hoặc sự thật khách quan của vụ án...sẽ gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án hoặc khó khăn cho chính mình hoặc Kiểm sát viên khác khi giải quyết vụ án... dẫn tới việc vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần, kéo dài nhiều năm mà không giải quyết triệt để được, hoặc nếu có giải quyết được thì khiên cưỡng và tạo lên những luồng dư luận khác nhau về vụ án, hoặc dẫn đến tình trạng khiếu nại kéo dài...
Thứ hai, mỗi Kiểm sát viên cần không ngừng học tập, nâng cao kiến thức pháp lý và kỹ năng kiểm sát đối với từng vụ án cụ thể, từng hoạt động tố tụng cụ thể. Kiểm sát viên cần nắm vững tinh thần và nội dung của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Hình sự, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự như Nghị quyết 109/2015, Nghị quyết 110/2015 ngày 27/11/2015 và Thông tư liên tịch số 02 ngày 22/12/2017... Tuy nhiên, trên đây chỉ là những văn bản mà Kiểm sát viên cần nắm chắc. Ngoài ra, Kiểm sát viên cần tăng cường nắm bắt tinh thần và quy định của các văn bản pháp luật liên quan đến mỗi vụ án cụ thể để có kiến thức khi yêu cầu Cơ quan điều tra thực hiện các hoạt động tố tụng và thu thập chứng cứ nhằm đảm bảo đề xuất đường lối chính xác, đúng quy định của pháp luật cũng như giải quyết triệt để vụ án. Đồng thời phải trang bị cho mình các kiến thức pháp luật liên quan đến lĩnh vực khác như luật dân sự, kinh doanh thương mại, ngân hàng hay chứng khoán... hoặc các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực khác như phòng cháy chữa cháy, y tế, thuế hay kế toán, bảo hiểm, xây dựng... Ngoài các kiến thức liên quan đến nghiệp vụ, Kiểm sát viên cần luôn nỗ lực học hỏi, trau dồi và trang bị các kiến thức về vi tính, tình hình thời sự, chính trị, xã hội, tình hình tội phạm, các phương thức, thủ đoạn phạm tội mới hay các loại tội phạm mới để bổ trợ cho việc giải quyết từng vụ án cụ thể....
Thứ ba, với mỗi Kiểm sát viên, trải qua kinh nghiệm công tác của chính bản thân, tích lũy kinh nghiệm từ lãnh đạo, đồng nghiệp, với trình độ, năng lực, kiến thức của mình... phải tự hình thành một kỹ năng kiểm sát và kỹ năng thực hành quyền công tố của riêng mình đối với các vụ án hình sự nói chung và từng loại tội danh hay với mỗi vụ án cụ thể... Đối với mỗi vụ án, Kiểm sát viên cần kiểm sát xem Cơ quan điều tra đã chứng minh được toàn bộ các nội dung cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT/VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQPngày 22/12/2017 của Liên ngành TW hay chưa, đồng thời xem xét trong giai đoạn điều tra, có trường hợp nào có thể rơi vào một trong các nội dung quy định tại Điều 4, 5, 6 của Thông tư trên hay không để có yêu cầu điều tra kịp thời... nhằm giải quyết một cách khách quan, toàn diện, triệt để vụ án và hạn chế tối đa việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở giai đoạn truy tố và xét xử.
Trong phạm vi bài viết, tác giả đưa ra một số kỹ năng khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự như sau:
Một là, kỹ năng lập bảng và vẽ sơ đồ: Với những vụ án phức tạp, nhiều bị can, nhiều bị hại, nhiều vật chứng... Kiểm sát viên cần thiết phải lập một số bảng biểu để theo dõi một cách khoa học, kịp thời và đầy đủ nội dung và trình tự giải quyết vụ án. Cơ quan điều tra chuyển tài liệu điều tra theo quy định tại khoản 5 Điều 88 Bộ luật Tố tụng hình sự đến đâu thì Kiểm sát viên sẽ cập nhật bổ sung thông tin ngay trong các bảng biểu đó để kiểm sát được Cơ quan điều tra đã điều tra được những nội dung gì, còn chưa điều tra, xác minh những nội dung gì để ban hành ngay yêu cầu điều tra tiếp theo. Ví dụ trong một vụ án Trộm cắp tài sản ổ nhóm, có nhiều bị can có nhiều tiền án tiền sự và các bị can thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có trong một thời gian dài, trên nhiều địa bàn, số lượng tài sản bị trộm cắp nhiều thì Kiểm sát viên phải lập bảng nhân thân các bị can, lập bảng theo dõi thời hạn điều tra và thời hạn tạm giam bị can, lập bảng kê theo từng vụ án với các cột thông tin như thời gian, địa điểm, bị can thực hiện hành vi phạm tội, tài sản trộm cắp/tiêu thụ, giá trị định giá, bị hại, người liên quan, vật chứng (thu giữ, giám định, tra cứu, trả; không thu giữ, truy tìm, yêu cầu bồi thường...) Hoặc với các vụ án liên quan đến xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm... con người, có những vụ án phức tạp, có nhiều bị can và mỗi bị can thực hiện những hành vi khác nhau ở những thời điểm khác nhau trong quá trình phạm tội của các bị can thì Kiểm sát viên cần thiết phải vẽ sơ đồ theo trình tự để cá thể hóa hành vi của từng bị can, hoặc có trường hợp xem xét mối quan hệ nhân - quả giữa hành vi và hậu quả xảy ra... để đánh giá đúng tội danh của từng bị can... nhằm đảm bảo nguyên tắc xử lý đúng người đúng tội...Có những vụ án mà lời khai của các bị can, bị hại, nhân chứng, người liên quan mâu thuẫn với nhau hoặc khác nhau...thì Kiểm sát viên cần lập một bảng lời khai của những người này về từng phần như hành vi, hung khí, thời gian, không gian... từ đó đối chiếu với các tài liệu điều tra khác, tư duy, suy luận để có đánh giá lời khai nào là khách quan, lời khai nào không khách quan... và tổng hợp, xâu chuỗi để có được đánh giá đúng về bản chất vụ án, từ đó có những đề xuất đường lối đúng đắn nhằm đảm bảo tính khách quan và sự thật vụ án...
Hai là, kỹ năng lập yêu cầu điều tra: Yêu cầu điều tra là hoạt động tố tụng quan trọng trong việc thực hiện tinh thần gắn chức năng công tố với điều tra. Mỗi Điều tra viên thụ lý vụ án đều có một kế hoạch điều tra vụ án. Tuy nhiên, do năng lực, trình độ, nhận thức và trách nhiệm của Điều tra viên, không phải Điều tra viên nào cũng có một kế hoạch điều tra để đáp ứng được yêu cầu giải quyết vụ án. Vì vậy, mỗi Kiểm sát viên cần đưa ra những yêu cầu điều tra chất lượng, sát với yêu cầu giải quyết cụ thể từng vụ án, tránh mang tính chung chung, hình thức hay đối phó. Khi Kiểm sát viên lập một bản yêu cầu điều tra tổng hợp, không nên đọc hồ sơ đến đâu thì viết yêu cầu điều tra đến đó và dàn trải các vấn đề ở các mục khác nhau. Cần tổng hợp lại và yêu cầu điều tra theo từng phần nội dung như: nhân thân các bị can, hành vi, hung khí, vật chứng, tài sản... và với mỗi nội dung đó thì yêu cầu cụ thể Cơ quan điều tra làm những việc gì. Sau đó, trong quá trình giải quyết vụ án, Kiểm sát viên cần bám sát việc Cơ quan điều tra thực hiện các yêu cầu điều tra và bổ sung các yêu cầu cụ thể khác nếu cần thiết để đảm bảo trong giai đoạn truy tố, Kiểm sát viên dự thảo một bản Cáo trạng chặt chẽ, logic, giải quyết đầy đủ và toàn diện các vấn đề trong vụ án và chuyển hồ sơ sang tòa án thì xét xử được, không bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Ví dụ, khi có kết quả giám định thương tích và hung khí trong một vụ án giết người, nếu Kiểm sát viên thấy Cơ quan điều tra khi ra quyết định trưng cầu giám định chưa yêu cầu Cơ quan giám định trả lời về mối quan hệ nhân quả giữa hung khí và thương tích.... thì Kiểm sát viên sẽ yêu cầu Cơ quan điều tra yêu cầu Cơ quan giám định trả lời rõ hơn, như: Con dao thu giữ có gây lên vết thương trên người nạn nhân hay không? Hay các vết thương trên người nạn nhân do mấy loại hung khí gây ra? Hay với hàm lượng thuốc diệt cỏ ... có gây ra hậu quả tử vong ở người?...
Ba là, kỹ năng hỏi cung bị can và ghi lời khai bị hại, nhân chứng, người liên quan: Điều tra viên khi ghi lời khai sẽ ghi đầy đủ hành vi phạm tội của bị can hoặc những nội dung mà bị hại, nhân chứng, người liên quan... biết về vụ án và thường hỏi, đáp theo dạng trình bày. Khi Kiểm sát viên ghi lời khai thì trước đó bắt buộc phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, đọc kỹ các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung... từ đó xây dựng một đề cương hỏi cung hoặc ghi lời khai, để qua đó thu thập được những thông tin còn thiếu, còn chưa đầy đủ hoặc làm rõ thêm, hoặc làm rõ những mâu thuẫn trước đó...phục vụ cho việc truy tố, xét xử...Quá trình ghi lời khai, hỏi cung cũng củng cố thêm niềm tin nội tâm đối với các kết quả điều tra của Cơ quan điều tra...Tránh việc hỏi cung hỏi lại những nội dung mà Điều tra viên đã hỏi hoặc hỏi mang tính thủ tục, hình thức và đối phó.
Bốn là, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Kiểm sát viên khi thực hiện chức năng của mình, cũng cần đặt mình vào vị trí của luật sư bào chữa. Nhiệm vụ của Kiểm sát viên là dự thảo Cáo trạng để truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ bản Cáo trạng khi xét xử, với chức năng là bên buộc tội. Ngược lại, luật sư là người gỡ tội cho bị can nên trong nhiều trường hợp, luật sư thường có những luận cứ ngụy biện, đánh tráo khái niệm hoặc áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội... Vì vậy, Kiểm sát viên, đôi khi cần đặt mình vào vị trí luật sư để xem xét ngoài chứng cứ buộc tội, đã xem xét đầy đủ cả những chứng cứ gỡ tội hay chưa, và nguyên tắc suy đoán vô tội của luật sư có cơ sở hay không? Nghĩa là khi luật sư sử dụng nguyên tắc suy đoán vô tội để bảo vệ thân chủ thì Kiểm sát viên cần vận dụng nguyên tắc này để chứng minh bị can, bị cáo phạm tội....
Năm là, kỹ năng đọc, nghiên cứu, bám sát hồ sơ và phối hợp với Điều tra viên, Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án: Kiểm sát viên cần nghiên cứu kỹ toàn bộ các tài liệu có trong hồ sơ, có nhận thức “đồng hành” cùng Cơ quan điều tra và Tòa án trong các giai đoạn tố tụng để phối hợp với Điều tra viên, Thẩm phán để giải quyết vụ án. Trong giai đoạn điều tra, Kiểm sát viên thường xuyên nắm bắt tiến độ điều tra của Điều tra viên để đôn đốc; phối hợp cùng Điều tra viên trong các hoạt động tố tụng;cùng Điều tra viên đánh giá chứng cứ và rà soát các thủ tục tố tụng trước khi kết thúc điều tra, tránh việc khi Cơ quan điều tra kết thúc hồ sơ chuyển sang Viện kiểm sát mới nghiên cứu hồ sơ . Trong giai đoạn xét xử, nếu Thẩm phán có đề nghị trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì tránh thái độ phản đối, dửng dưng, thách thức mà Kiểm sát viên cần nghiên cứu xem xét những nội dung mà thẩm phán đưa ra với thái độ cầu thị để hoặc bổ sung tài liệu chứng cứ, hoặc có sự phản biện “có lý có tình” để tránh việc hồ sơ bị trả một cách đáng tiếc. Mặt khác, sau khi chuyển hồ sơ đến Tòa án để xét xử , nếu giai đoạn truy tố bản thân thấy còn gì đó “băn khoăn” thì cũng cần chủ động trao đổi và tranh thủ ý kiến của Thẩm phán để có thể chủ động trong việc bổ sung tài liệu chứng cứ phục vụ việc xét xử...
Bên cạnh đó, Kiểm sát viên cũng cần có kỹ năng “mềm” trong suốt quá trình giải quyết vụ án như kỹ năng làm việc với từng Điều tra viên, Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án, phối hợp nhưng độc lập, không “thỏa hiệp”, không bị cuốn theo ý chí chủ quan của Điều tra viên, Thẩm phán. Để làm được điều này, Kiểm sát viên cần luôn luôn chủ động trong các giai đoạn tố tụng, các hoạt động tố tụng để có một bản lĩnh “Kiểm sát viên”, “cương, nhu” đúng lúc, đúng thời điểm và có quan điểm rõ ràng; hoặc kỹ năng tranh thủ ý kiến của chính Điều tra viên, Thẩm phán, đồng nghiệp hay sự chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị và lãnh đạo ngành bạn, lãnh đạo cấp trên...Trong những vụ án cụ thể, Kiểm sát viên cũng cần thông qua Điều tra viên hoặc trực tiếp nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, điều kiện, hoàn cảnh của bị can, người liên quan, nhân chứng, bị hại... để có các thông tin khác liên quan đến vụ án, hoặc để giải thích pháp luật hay động viên đương sự trong quá trình khai báo hay cung cấp các thông tin để làm sáng tỏ nội dung nào đó của vụ án... đảm bảo vụ án được giải quyết khách quan, toàn diện , tránh được tính trạng trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Nguyễn Thị Út – Kiểm sát viên Phòng 2