Một số khó khăn, vướng mắc và giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết tội phạm liên quan đến các đối tượng giả danh cán bộ Tư pháp thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Trong thời gian qua, tình hình vi phạm và tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội vẫn diễn biến phức tạp với nhiều phương thức, thủ đoạn khác nhau, nhất là tội phạm sử dụng công nghệ cao để gây án… khiến dư luận bức xúc, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và đời sống nhân dân. Trong đó, thủ đoạn giả danh người có chức vụ, quyền hạn để lừa đảo, nhất là giả danh cán bộ Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Thi hành án … vẫn tiếp tục xảy ra mặc dù các cơ quan chức năng đã nhiều lần tuyên truyền, thông báo phương thức thủ đoạn của loại tội phạm này trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Một số phương thức, thủ đoạn mà các đối tượng phạm tội thường sử dụng là các dịch vụ có chức năng giả mạo đầu số, giả mạo số điện thoại, mạo danh cán bộ của cơ quan chức năng trong các cơ quan thực thi pháp luật như công an, viện kiểm sát, tòa án để gọi điện cho người dân nhằm gây sức ép, làm người dân hoang mang, sau đó yêu cầu chuyển tiền vào tài khoản do các đối tượng này cung cấp để chiếm đoạt; hoặc yêu cầu người dân cung cấp mã OTP (mã bảo mật) của tài khoản ngân hàng sau đó chiếm quyền sử dụng tài khoản và thao tác chuyển tiền từ tài khoản của người dân đến các tài khoản khác nhau do các đối tượng chuẩn bị sẵn nhằm chiếm đoạt tài sản. Các đối tượng sử dụng nhiều kịch bản khác nhau như: Giả làm nhân viên bưu điện gọi điện thông báo nhận bưu phẩm, nhân viên viễn thông gọi điện thông báo nợ cước, giả làm cảnh sát giao thông gọi điện thông báo phạt nguội, thông báo việc người dân gây tai nạn bỏ trốn… để khai thác thông tin cá nhân. Sau đó, chúng sử dụng các thông tin đó làm giả các lệnh bắt, khởi tố của cơ quan công an, viện kiểm sát rồi giả danh cán bộ công an, viện kiểm sát gọi điện để đe dọa nạn nhân (thường thông báo nạn nhân liên quan đến các đường dây buôn bán ma túy xuyên quốc gia, rửa tiền), yêu cầu nạn nhân chuyển tiền vào tài khoản do chúng cung cấp để phục vụ công tác điều tra, sau đó chiếm đoạt hoặc yêu cầu nạn nhân tự đăng ký một tài khoản ngân hàng, chuyển tiền vào tài khoản đó rồi cung cấp tài khoản, mật khẩu, mã OTP (mã bảo mật) cho các đối tượng. Để tránh bị điều tra phát hiện, chúng sẽ chia nhỏ số tiền đã chiếm đoạt và chuyển tiền đến nhiều nguồn tài khoản khác nhau (có trường hợp dùng cả tài khoản nước ngoài).
Số tiền bị chiếm đoạt trong các vụ việc giả danh cán bộ tư pháp để lừa đảo chiếm đoạt tài sản ngày càng lớn, từ ít nhất 10 triệu đồng đến hàng tỷ đồng. Các bị hại trong các vụ việc, vụ án của loại tội phạm này khá đa dạng, không chỉ tập trung ở những người phụ nữ, người già cả tin mà còn xảy ra ở cả những người có trình độ cao, có hiểu biết về pháp luật. Nguyên nhân chính dẫn đến sự gia tăng của loại tội phạm này là do công tác phòng ngừa đảm bảo an toàn thông tin của một số cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức nên các đối tượng tội phạm có thể đăng nhập, phát tán các mã độc lấy cắp thông tin với số lượng lớn; tình trạng rao bán trên các trang mạng các thông tin cá nhân để nhằm mua bán và trục lợi. Đặc biệt là hiện nay, một số người dân còn thiếu cảnh giác trong bảo vệ thông tin cá nhân, không nắm sát các quy định của ngân hàng dẫn đến bị các đối tượng lợi dụng làm giả giấy tờ, tài liệu.
Quá trình thụ lý, giải quyết các vụ án, vụ việc liên quan đến các đối tượng giả danh cán bộ tư pháp thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thấy một số khó khăn, vướng mắc như sau:
- Thứ nhất, khó khăn trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ và xác định đối tượng phạm tội. Đặc trưng cơ bản nhất của loại tội phạm này là không thể chứng minh bằng chứng cứ thông thường mà chủ yếu là chứng cứ điện tử. Tuy nhiên thực tế cho thấy việc thu thập được chứng cứ điện tử là hết sức khó khăn do loại tội phạm này ít khi được phát hiện bằng việc bắt quả tang mà chủ yếu là qua lời khai bị hại, cơ quan điều tra lập chuyên án, truy xét, căn cứ theo các dấu vết dữ liệu điện tử để truy nguyên ra nguồn gốc tội phạm. Trong thời gian ngắn đối tượng phạm tội dùng thủ đoạn xoá bỏ các dấu vết điện tử nên dễ dàng che dấu hành vi phạm tội của mình, gây khó khăn trong việc thu thập chứng cứ. Mặt khác, do đây là loại tội phạm sử dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác nên việc nhận diện, xác định được đối tượng phạm tội gặp nhiều khó khăn.
- Thứ hai, công tác phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan (chủ yếu là các đơn vị cung cấp dịch vụ viễn thông, dịch vụ thanh toán điện tử; các tổ chức tín dụng, các công ty cung cấp dịch vụ mua sắm trực tuyến (như Shopee, Sen đỏ, Lazada, Tiki...), các công ty quản lý mạng xã hội như Facebook, Zalo, Viber, Watchat, Line, Telegram…) còn chưa chặt chẽ gây nhiều khó khăn trong công tác thu thập chứng cứ. Hiện chưa có chế tài, quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ chức trên trong công tác giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và giải quyết các vụ án hình sự; là nguyên nhân dẫn đến phần lớn các vụ việc hiện nay đang tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm vì lý do chờ văn bản trả lời của các cơ quan, tổ chức có liên quan.
- Thứ ba, khó khăn trong việc thu hồi tài sản trả lại cho người bị hại. Thực tế, hầu hết các vụ việc đều không thu hồi được tài sản do đối tượng phạm tội yêu cầu nộp tiền vào tài khoản ngân hàng. Ngay sau khi tiền vào tài khoản chỉ định, đối tượng sử dụng internet banking chuyển tiền đến nhiều tài khoản khác nhau rồi rút ra ở nhiều nơi khác nhau; hoặc thông qua các Công ty thực hiện trung gian thanh toán ví điện tử để quy đổi thành Coin bán lại cho các đối tượng chơi game hoặc từ Coin này lại quy đổi thành tiền và chuyển vào các tài khoản khác nhau để tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng.
- Thứ tư, các số điện thoại mà đối tượng sử dụng gọi điện, nhắn tin cho người bị hại xuất phát từ nhiều đầu số, tuy nhiên phổ biến trong thời gian gần đây là đầu số +882, +60; khi tiến xác minh các số điện thoại trên đều cho ra số điện thoại có nguồn gốc từ quốc gia khác, không thuộc các nhà mạng Việt Nam nên không xác định được chủ thuê bao là ai. Mặt khác, mạng xã hội mà các đối tượng sử dụng để giả danh lừa đảo như Zalo, Facebook, Telegram,… được đăng ký dưới nhiều tài khoản khác nhau, chủ yếu là tài khoản ảo và được các mạng xã hội bảo vệ quyền riêng tư, dữ liệu cá nhân nên rất khó để xác minh, điều tra làm rõ chủ sở hữu tài khoản.
- Thứ năm, việc quản lý các tài khoản ngân hàng của các tổ chức tín dụng còn chưa chặt chẽ, dẫn đến việc các đối tượng phạm tội lợi dụng sự sơ hở trong công tác quản lý để mở các tài khoản ngân hàng ảo, không đúng chủ sở hữu, sử dụng tài khoản. Thực tế, nhiều tài khoản ngân hàng được mở dựa trên chứng minh thư, căn cước công dân giả, hết thời hạn; nhiều tài khoản ngân hàng được giao bán trên mạng xã hội nên khi điều tra, xác minh ra tên chủ tài khoản thì người đứng tên không biết và không sử dụng tài khoản đó, gây khó khăn trong việc truy nguyên người phạm tội.
- Thứ sáu, việc quản lý sim thẻ của các công ty cung cấp dịch viễn thông còn chưa chặt chẽ, nhiều sim rác được bán ra mà không thực hiện việc đăng ký chính chủ theo quy định. Việc cấp mã OTP (mã bảo mật) để chuyển tiền của các ngân hàng qua các sim điện thoại không đăng ký chính chủ dẫn đến việc điều tra, xác minh, nhận diện các đối tượng phạm tội rất khó khăn.
- Thứ bảy, quá trình điều tra, xác minh, Cơ quan điều tra phát hiện vụ việc, vụ án có dấu hiệu tội phạm ở nước ngoài nên cần thực hiện tương trợ tư pháp. Tuy nhiên, kết quả tương trợ thường rất lâu, kéo dài, ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ việc, vụ án.
Qua thực tiễn giải quyết tội phạm liên quan đến các đối tượng giả danh cán bộ tư pháp thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tác giả xin nêu một số kiến nghị, giải pháp để công tác đấu tranh phòng chống tội phạm này ngày càng hiệu quả hơn đó là:
- Một là, Liên ngành Trung ương ban hành hướng dẫn, quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp và cung cấp thông tin của các ngân hàng, các công ty viễn thông hoặc các cơ quan, tổ chức khác có liên quan trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và các vụ án hình sự (tập trung quy định về thời hạn cung cấp thông tin; và các biện pháp, chế tài xử lý trong trường hợp chậm trả lời hoặc không trả lời các yêu cầu, đề nghị của các cơ quan tiến hành tố tụng).
- Hai là, kịp thời thu giữ, ghi nhận sự việc, ghi nhận chi tiết về hiện trạng ngay từ ban đầu phản ánh thực tế khách quan, chính xác vụ việc, chính xác về đối tượng phạm tội cũng như khách thể bị xâm hại, làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án được khách quan, chính xác. Trong trường hợp cần thiết sử dụng các kỹ thuật điều tra đặc biệt để thu thập chứng cứ như: sử dụng kỹ thuật công nghệ máy tính để phục hồi lại các dữ liệu đã bị xóa, yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ mạng cung cấp thông tin, quyền truy cập máy tính và lấy dữ liệu. Chủ động trao đổi với các cơ quan chuyên môn để nắm bắt và xử lý chính xác các nội dung cần thiết.
- Ba là, để đảm bảo quyền lợi của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, trước hết các ngân hàng cần tăng cường nhiều biện pháp an ninh, sử dụng các trang thiết bị, công nghệ hiện đại để phòng ngừa tội phạm, đảm bảo tài sản và quyền lợi của khách hàng, đây là mong đợi chung của khách hàng và cả các cơ quan chức năng.
- Bốn là, lực lượng công an các địa phương đẩy mạnh công tác nắm tình hình, quản lý chặt chẽ các đối tượng có biểu hiện nghi vấn hoạt động liên quan đến lừa đảo chiếm đoạt tài sản; mở các đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, trong đó có tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đặc biệt là tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên không gian mạng. Tập trung điều tra, khởi tố, xử lý các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, triệt để thu hồi tài sản bị chiếm đoạt. Mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng, phối hợp trao đổi thông tin, nâng cao năng lực điều tra, thu hồi tài sản, bắt giữ tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản trốn ra nước ngoài…
- Năm là, cần tổng kết rút kinh nghiệm công tác điều tra, khám phá, xử lý tội phạm liên quan đến các đối tượng giả danh cán bộ tư pháp thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nêu rõ phương thức thủ đoạn phạm tội để các cơ quan tố tụng, các cơ quan có liên quan vận dụng trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Trên đây là một số khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết tội phạm liên quan đên các đối tượng giả danh cán bộ tư pháp thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Rất mong nhận được sự trao đổi, bổ sung của các đồng nghiệp.
Lê Thị Ánh Tuyết - Phòng 2