Kỹ năng xác định các trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên Tòa dân sự sơ thẩm

Mai Thùy Linh

        Theo quy định tại các Điều 26, 28, 30, 32 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, Tòa án có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Tuy nhiên, không phải tất cả các phiên tòa dân sự Viện kiểm sát đều tham gia, Viện kiểm sát chỉ tham gia trong những trường hợp pháp luật quy định. Vì thế, ngay khi nhận được thông báo thụ lý vụ án, Kiểm sát viên được phân công kiểm sát phải xác định xem vụ án đó có thuộc trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa hay không. Để làm dược điều đó, Kiểm sát viên cần phải nắm vững nội dung khoản 2 Điều 21 BLTTDS, Thông tư số 02/2016, Quy chế công tác kiểm sát dân sự.

        Căn cứ Khoản 2 Điều 21 BLTTDS, Luật tổ chức Viện KSND và Quy chế công tác kiểm sát dân sự thì Viện kiểm sát phải tham gia tất cả các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; và Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa sơ thẩm đối với những trường hợp sau:

        Thứ nhất, vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ

        Bất cứ vụ án dân sự nào Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ thì Viện kiểm sát có trách nhiệm phải tham gia phiên tòa. Việc thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án dân sự có nhiều cách thức khác nhau như: Tòa án thu thập theo yêu cầu của đương sự hoặc thu thập theo yêu cầu của Viện kiểm sát hoặc Tòa án tự thu thập khi xét thấy cần thiết. Quá trình thu thập chứng cứ, Tòa án có thể thông qua một hoặc một số biện pháp quy định tại Điều 97 và được quy định cụ thể từ Điều 98 đến Điều 106 BLTTDS 2015.

        Quá trình Tòa án thu thập chứng cứ nhằm giải quyết vụ án thường diễn ra phức tạp, rất dễ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì vậy, kiểm sát chặt chẽ việc Tòa án áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ là rất cần thiết đối với hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát để đảm bảo chứng cứ được thu thập theo đúng quy định của pháp luật và có giá trị chứng minh.

        Thứ hai, vụ án mà đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở

        Đối tượng tranh chấp là tài sản công: tài sản công là tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước tại các cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, được hình thành từ nguồn do ngân sách nhà nước cấp hoặc có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước.

        Đối tượng tranh chấp là lợi ích công cộng: Lợi ích công cộng là những lợi ích vật chất hoặc tinh thần liên quan đến xã hội hoặc cộng đồng dân cư.

        Đối tượng tranh chấp là quyền sử dụng đất: Theo quy định của pháp luật, đó là các tranh chấp về quyền sử dụng đất (ai là người có quyền).

        Đối tượng tranh chấp là nhà ở: Đây là tranh chấp về sở hữu, đối tượng là quyền sở hữu về nhà ở (ai có quyền sở hữu căn nhà).

        Tranh chấp về hợp đồng có đối tượng của hợp đồng là quyền sử dụng đất hoặc nhà ở.

        Ví dụ: Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng mua bán nhà ở; tranh chấp về hợp đồng thuê quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng thuê nhà ở; tranh chấp về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng tặng cho nhà ở; tranh chấp về hợp đồng góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng góp vốn bằng giá trị nhà ở…

        Khi tiến hành công tác kiểm sát kiểm sát viên cần lưu ý: Đối với tranh chấp về hợp đồng có liên quan đến quyền sử dụng đất hoặc nhà ở, nhưng quyền sử dụng đất hoặc nhà ở đó không phải là đối tượng của hợp đồng, thì không thuộc trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa sơ thẩm.

        Ví dụ: A vay ngân hàng H số tiền là 300 triệu đồng, đồng thời thế chấp cho ngân hàng quyền sử dụng đất (trên đất có nhà ở) trị giá 1 tỷ đồng. Đến thời hạn trả nợ, A không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán, ngân hàng đã khởi kiện ra Tòa án yêu cầu Tòa án giải quyết buộc A phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Đối với vụ án dân sự này, đối tượng tranh chấp là khoản tiền A vay ngân hàng chứ không phải là quyền sử dụng đất và nhà ở A dùng để thế chấp. Do đó, không thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa nếu Tòa án không tiến hành thu thập chúng cứ.

        Ngoài ra còn một số tranh chấp khác như: Tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất hoặc thừa kế nhà ở; Tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất hoặc đòi lại nhà ở đang cho mượn, cho sử dụng nhờ; Tranh chấp trong các giao dịch dân sự khác có đối tượng giao dịch là quyền sử dụng đất, nhà ở đều là các trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa sơ thẩm.

        Thứ ba, vụ án có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi

        Là người chưa thành niên: Theo Điều 21 BLDS năm 2015 quy định, người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi.

        Là người mất năng lực hành vi dân sự: Theo Điều 22 BLDS 2015 quy định, người mất năng lực hành vi dân sự như sau: Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

        Là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự: Hạn chế năng lực hành vi dân sự là người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đối với người này, Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện (Điều 24 BLDS 2015).

        Là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi: Theo Điều 23 BLDS năm 2015, người thành niên do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của người này, người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ.

        Những người này đều là những người do có những điều kiện nhất định dẫn đến chưa đủ, bị thiếu hoặc bị mất một phần hoặc toàn bộ năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, khi họ tham gia tố tụng rất dễ bị cơ quan, người tiến hành tố tụng, các chủ thể tham gia tố tụng khác áp đặt, lợi dụng mà bản thân họ khó có thể kiểm soát các hành vi của các chủ thể còn lại dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị thiệt hại hoặc có thể không được xem xét hoặc bị áp đặt. Do đó, bằng chức năng, nhiệm vụ của mình Viện kiểm sát phải tham gia phiên tòa để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho họ đồng thời đảm bảo cho các hoạt động tố tụng diễn ra đúng quy định của pháp luật và công bằng.

        Thứ tư, vụ án dân sự chưa có điều luật áp dụng

        Vụ án chưa có điều luật để áp dụng đó là những vụ án mà người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết nhưng tranh chấp đó chưa có điều luật điều chỉnh.

        Ví dụ: Tranh chấp về việc bốc mộ, chăm sóc mồ mả hay kiện đòi các giấy tờ liên quan đến quyền sở hữu, quyền nhân thân,... những tranh chấp này không thuộc quy định tại Điều 26, 28, 30 và Điều 32 BLTTDS, trước đây Tòa án không giải quyết, nhưng đến nay, dù chưa có điều luật điều chỉnh, nhưng Tòa án vẫn phải thụ lý giải quyết. Đối với những trường hợp này, Viện kiểm sát bắt buộc phải tham gia phiên tòa.

        Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, kể từ khi thụ lý đến khi xét xử sơ thẩm, nếu phát hiện vụ án dân sự thuộc một trong các trường hợp pháp luật quy định phải có Viện kiểm sát tham gia phiên tòa thì Tòa án phải chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát để Kiểm sát viên tiến hành nghiên cứu hồ sơ và tham gia phiên tòa sơ thẩm theo quy định.

Nguyễn Văn Điền - Viện KSND thị xã Sơn Tây

        ----------

        TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ luật dân sự năm 2015, NXB Lao động;
  2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, NXB Lao động;
  3. Giáo trình nghiệp vụ kiểm sát, tập 6, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, 2017;
  4. Tài liệu bồi dưỡng kỹ năng kiểm sát giải quyết các vụ án Dân sự, HNGĐ, Kinh doanh thương mại, Lao động, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, 2018.
Bài viết trước Vai trò, nhiệm vụ của Viện KSND trong việc bảo vệ quyền con người trong Tố tụng hình sự
Bài viết tiếp theo Viện KSND thành phố Hà Nội đơn vị đi đầu trong việc thực hiện đánh giá hằng tháng đối với công chức, người lao động trong ngành KSND
In
2091 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều