Định tội danh liên quan đến hành vi chiếm đoạt tiền điện tử, vấn đề định giá tài sản là tiền điện tử

Nguyễn Thị Xuân Quỳnh

        Kể từ khi tiền điện tử ra đời vào khoảng năm 2009, các loại tiền điện tử như Bitcoin, Tether, Ethereum... dần được chấp nhận sử dụng để giao dịch và thanh toán rộng rãi trên toàn cầu do tính tiện lợi và không bị ràng buộc bởi một quốc gia nào của nó. Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 6, 7 Điều 1 Nghị định số 80/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt, hiện nay các loại tiền điện tử vẫn chưa được coi là một phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam. Dù vậy, trên thực tế vẫn diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, giao dịch, thanh toán sử dụng tiền điện tử tại Việt Nam, từ đó tất yếu nảy sinh ra các hành vi phạm tội mà đối tượng tác động của chúng là tiền điện tử - loại tiền chưa được công nhận ở Việt Nam, dẫn tới khó khăn trong việc định tội danh cũng như xác định giá trị tài sản bị thiệt hại trong các vụ án liên quan tới tiền điện tử.

        Điển hình là vụ án sau:

        Anh Nguyễn Hoàng T là trưởng nhóm chuyên cung cấp các thông tin về dự án tiền điện tử trên ứng dụng Telegram. Ngày 13/11/2021, anh T đăng thông tin về dự án N để mọi người tìm hiểu. Ngày 21/11/2021, anh T và anh Nguyễn Duy Q tạo ví điện tử “TKxx” để những nhà đầu tư chuyển tiền điện tử Tether USD (USDT) vào. Sau đó, có 81 nhà đầu tư tham gia đầu tư vào ví điện tử trên với tổng số tiền 106.337 USDT tương đương với 2.370.000.000 đồng. Sáng ngày 23/11/2021, chị Ng đến nơi Nguyễn Tiến Tr thuê trọ để chơi. Khoảng 13h cùng ngày chị Ng được anh T giao quản lý ví điện tử trên và cụm 12 chữ bảo mật (Private key) của ví điện tử để đối soát những người chuyển tiền điện tử USDT vào ví. Đến 18h cùng ngày, Ng cho Tr xem ví điện tử trên, Tr xem nội dung tin và nhớ được 12 chữ bảo mật. Khoảng 03 ngày 24/11/2021, Tr vào ứng dụng “Trust” là ứng dụng lưu trữ tiền điện tử trong điện thoại của Tr kết nối mạng internet nhập 12 chữ bảo mật của ví điện tử do Ng quản lý. Sau khi truy cập thành công, Tr thấy ví có 106.337 USDT nên đã chuyển hết số tiền điện tử này sang ví điện tử của Tr để chiếm đoạt. Sau đó Tr gọi điện cho Đỗ Tuấn A nhờ bán USDT với giá 23.700 đồng/USDT đồng thời chuyển 100.000 USDT từ ví điện tử của Tr đến ví điện tử của Tuấn A. Tuấn A trao đổi với Phạm Văn Đ, Đ lại giới thiệu Lê Thanh Th để mua 100.000 USDT với giá 2.370.300.000 đồng (23.703 đồng/USDT). Sau đó, Tuấn A chuyển 100.000 USDT vào ví điện tử của Th mở tại sàn Binance, Th đặt lệnh bán cho 05 nhà đầu tư với tổng số tiền 2.370.300.000 đồng rồi chuyển toàn bộ số tiền này cho Tuấn A, Tuấn A chuyển cho Tr 2.370.300.000 đồng. Nhận được tiền, Tr đã sử dụng mua xe ô tô, điện thoại, tiêu xài cá nhân và trả nợ hết.

        Quá trình giải quyết vụ án trên, về vấn đề định tội danh của Nguyễn Tiến Tr có ba quan điểm, cụ thể:

        Quan điểm thứ nhất: Hành vi của Nguyễn Tiến Tr phạm tội “Xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác” quy định tại Điều 289 Bộ luật hình sự. Quan điểm này cho rằng:

        + Về mặt khách quan của tội phạm: Tr đã có hành vi cố ý sử dụng quyền quản trị ví điện tử của chị Ng để xâm nhập trái phép vào ví điện tử này, sau đó chiếm đoạt toàn bộ dữ liệu điện tử là 106.337 USDT bên trong ví rồi bán một phần để thu lời bằng tiền Việt Nam đồng, sử dụng một phần để đầu tư và trả nợ. Tội “Xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác” quy định tại Điều 289 Bộ luật hình sự là tội phạm cấu thành hình thức, do đó chỉ cần Tr thực hiện hành vi nêu trên, dù chưa bán được tiền điện tử sang tiền Việt Nam đồng thì vẫn phạm tội theo Điều 289 Bộ luật hình sự.

        + Về đối tượng tác động của tội phạm: Tiền điện tử nói chung và USDT nói riêng là phương thức thanh toán không được Nhà nước Việt Nam chấp nhận, từ đó USDT không được pháp luật Việt Nam chấp nhận là tài sản, do vậy không có  căn cứ để tiến hành định giá số lượng USDT của chị Ng bị Tr chiếm đoạt nhằm xác định giá trị tài sản chiếm đoạt. Như vậy hành vi của Tr không phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự mà  phạm vào tội “Xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác” quy định tại Điều 289 Bộ luật hình sự.

        Quan điểm thứ hai: Hành vi của Nguyễn Tiến Tr phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự. Quan điểm này cho rằng:

        + Về mặt khách quan của tội phạm: Hành vi của Nguyễn Tiến Tr là hành vi truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của chị Nguyễn Thị Ng (ví điện tử cũng có thể coi là một loại tài khoản lưu trữ tài sản) nhằm chiếm đoạt tài sản là tiền điện tử do chị Ng quản lý. Tội phạm quy định tại Điều 290 Bộ luật hình sự cũng là tội phạm cấu thành hình thức.

        + Về đối tượng tác động của tội phạm: Mặc dù USDT và các loại tiền điện tử khác chưa được công nhận tại Việt Nam như một phương thức thanh toán hợp pháp nhưng trên thực tế nó lại có giá trị quy đổi được bằng tiền Việt Nam đồng, do đó vẫn cần phải coi nó là một loại tài sản. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 3 và Khoản 2 Điều 15 Nghị định 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 thì đối với hàng hóa chưa được phép lưu hành, sử dụng tại Việt Nam như tiền điện tử thì vẫn có thể định giá được và phải dựa vào ít nhất một trong những căn cứ theo quy định tại Khoản 2 Điều 15 Nghị định 30, trong đó điểm a khoản 2 qui định ưu tiên dựa trên giá mua bán thu thập được trên thị trường không chính thức tại thời điểm và tại nơi tài sản là hàng cấm được yêu cầu định giá hoặc tại địa phương khác. Như vậy, hội đồng định giá vẫn có thể tiến hành định giá đối với tiền điện tử nói chung và 106.337 USDT trong vụ án này nói riêng bằng cách xác định giá mua bán USDT trên thị trường vào thời điểm Tr nhờ Đỗ Tuấn A bán ra để có căn cứ xác định số tài sản bị thiệt hại.

        Quan điểm thứ ba (cũng là quan điểm của nhóm tác giả): Hành vi của Nguyễn Tiến Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự.

        + Về hành vi khách quan: Trong vụ án này, Nguyễn Tiến Tr được chị Nguyễn Thị Ng cho xem ví điện tử mà chị Ng quản lý, đồng thời chị Ng cũng nhập 12 chữ bảo mật trước mặt Tr, Tr ghi nhớ được 12 chữ bảo mật này và sử dụng nó để truy cập hợp pháp vào ví điện tử trên rồi sau đó chiếm đoạt 106.337 USDT có trong ví. Tr không có hành vi “vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào phương tiện điện tử của người khác chiếm quyền điều khiển; can thiệp vào chức năng hoạt động của phương tiện điện tử; lấy cắp, thay đổi, hủy hoại, làm giả dữ liệu hoặc sử dụng trái phép các dịch vụ” là các hành vi khách quan được liệt kê tại Điều 289 Bộ luật hình sự, hay hành vi “truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cá nhân” là hành vi khách quan của Điều 290 Bộ luật hình sự, mà hành vi của Tr chỉ đơn thuần là lén lút với người quản lý là chị Ng rồi dịch chuyển 106.337 USDT từ ví điện tử của chị Ng (mà Tr truy cập vào một cách hợp pháp do Tr có 12 chữ bảo mật) sang ví điện tử của Tr. Như vậy, hành vi của Nguyễn Tiến Tr phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự.

        + Về đối tượng tác động: Nhóm tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai ở khía cạnh USDT là tài sản và có thể định giá được và sử dụng giá mua bán thu thập được trên thị trường không chính thức tại thời điểm và tại nơi số tiền điện tử bị chiếm đoạt được yêu cầu định giá. Tuy nhiên, khác với các tội phạm quy định tại Điều 289, 290 Bộ luật hình sự, tội Trộm cắp tài sản có cấu thành tội phạm vật chất, do đó việc xác định chính xác giá trị tài sản mà Tr chiếm đoạt được là căn cứ để định tội.

        Về vấn đề này, có quan điểm cho rằng, hiện chưa có hướng dẫn về định giá đối với tiền điện tử vì tiền điện tử không được coi là tài sản, do vậy trong các vụ án chiếm đoạt tiền điện tử thì tài sản chiếm đoạt sẽ chỉ được tính dựa trên số tiền điện tử mà người phạm tội trên thực tế đã chuyển đổi được sang tiền Việt Nam đồng, còn số tiền điện tử đã bị chiếm đoạt nhưng chưa chuyển đổi thì không được coi là tài sản bị chiếm đoạt. Cụ thể, ở vụ án này Tr chiếm đoạt được 106.337 USDT nhưng thực tế chỉ nhờ Đỗ Tuấn A bán ra 100.000 USDT và thu lời 2.370.300.000 đồng, còn số 6.337 USDT Tr đã sử dụng để trực tiếp trả nợ và đầu tư hết chứ không chuyển đổi sang tiền Việt Nam đồng. Như vậy, quan điểm này cho rằng tài sản bị chiếm đoạt là 100.000 USDT đã chuyển đổi thành 2.370.300.000 VNĐ, còn số 6.337 USDT không được tính là tài sản bị chiếm đoạt.

        Tuy nhiên, nhóm tác giả không đồng ý với quan điểm trên. Bởi lẽ, USDT và tiền điện tử nói chung tuy chưa được pháp luật Việt Nam công nhận là tài sản nhưng cho dù người phạm tội đã kịp chuyển đổi sang tiền VNĐ hay chưa thì bản thân nó cũng có giá trị trên thực tế và có thể sẵn sàng quy đổi được sang tiền VNĐ. Giả sử trong trường hợp vụ án mà người phạm tội chiếm đoạt được một lượng lớn tiền điện tử nhưng chưa kịp chuyển đổi sang tiền VNĐ thì bị phát hiện thì không được coi là hành vi phạm tội?

        Do đó, nhóm tác giả cho rằng:

        - Thứ nhất, hành vi của Nguyễn Tiến Tr cố ý sử dụng 12 chữ bảo mật truy cập vào ví điện tử của chị Nguyễn Thị Ng rồi chiếm đoạt số tiền điện tử bên trong ví là phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 Bộ luật hình sự;

        - Thứ hai, đối với các vụ án mà tiền điện tử là đối tượng tác động, cho dù người phạm tội đã kịp chuyển đổi tiền điện tử sang tiền Việt Nam đồng hay chưa thì toàn bộ số tiền điện tử mà người phạm tội chiếm đoạt đều được coi là tài sản bị chiếm đoạt và hoàn toàn có thể tiến hành định giá theo qui định tại Khoản 2 Điều 15 Nghị định 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ.

        Trên đây là quan điểm của nhóm tác giả liên quan đến việc định tội danh liên quan đến hành vi chiếm đoạt tiền điện tử cũng như vấn đề định giá tài sản là tiền điện tử bị chiếm đoạt, rất mong nhận được sự trao đổi, bổ sung của các đồng nghiệp./.

Phạm Hoàng Lan Phương, Nguyễn Thị Thúy Diệp, Nguyễn Mai Linh – Phòng 7

 

Bài viết trước Một số khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2020
Bài viết tiếp theo Trẻ hóa độ tuổi ly hôn – Nguyên nhân và giải pháp kiềm chế số vụ án ly hôn gia tăng trong thời gian tới
In
1696 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều