Chế định mới về bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong Bộ luật TTHS năm 2015

Huỳnh Phương Linh

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là đạo luật thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện xử lý, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; không ngừng tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định trình tự, thủ tục để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền và trách nhiệm theo quy định pháp luật. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tiếp tục phát huy ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn và vận dụng một cách linh hoạt những ưu điểm của mô hình tố tụng tranh tụng phù hợp với tình hình thực tế của nước ta.

Trong phạm vi của bài viết này, chỉ đề cập đến một số chế định mới về “Bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự,, trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để góp phần làm sáng tỏ hơn các quy định mới này.

1/ Về đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, quy định có 03 đối tượng là người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được bảo đảm quyền bào chữa là “Tự mình bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa,,. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, quy định có 04 (bốn) đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. So với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì Bộ luật Tố tụng năm 2015 quy định số lượng đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa nhiều hơn là 01 (một) đối tượng, cụ thể:

Điều 58, Bộ luật Tố tụng năm 2015 quy định: Người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang và người bị bắt theo quyết định truy nã có quyền:… Tự bào chữa, nhờ người bào chữa

Điều luật quy định mới thêm đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa là người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã đã mở rộng phạm vi đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa, xác định thời điểm được bảo đảm quyền bào chữa là từ khi xảy ra sự kiện pháp lý có người bị bắt nhưng phải thuộc trường hợp phạm tội quả tang hoặc trong trường hợp bị bắt theo quyết định truy nã. Quy định mới này đã thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về người bị bắt có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; quyền con người ngày càng được bảo đảm.

2/ Về người bào chữa (Điều 72)

- Điều 72 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, quy định người bào chữa có thể là: Luật sư; người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Nội dung điều luật quy định số lượng người bào chữa có 04 (bốn) người. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định số lượng người bào chữa là 03 (ba) người gồm có: Luật sư; người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân, so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì số lượng người bào chữa của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhiều hơn 01 (một) người là trợ giúp viên pháp lý.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, quy định mới trợ giúp viên pháp lý (thường gọi là luật sư công) được tham gia bào chữa trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý là người nghèo; người có công với cách mạng; người già từ đủ 60 tuổi trở lên sống cô đơn, không nơi nương tựa; người khuyết tật theo Luật người khuyết tật; người bị nhiễm chất độc hóa học, bị nhiễm HIV mà không có nơi nương tựa; trẻ em dưới 16 tuổi không có nơi nương tựa; người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn; các đối tượng khác được trợ giúp pháp lý theo quy định tại điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; nạn nhân theo quy định của Luật phòng, chống mua bán người; việc trợ giúp viên pháp lý bào chữa là mang tính chất hỗ trợ, giúp đỡ miễn phí.

- Khoản 4 của điều luật quy định có 11 (mười một) người không được bào chữa: Người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó; người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật; người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc. So với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định mới thêm 04 (bốn) người không được bào chữa gồm có: Người dịch thuật, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đã bị kết án chưa được xóa án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.

3/ Về quyền của người bào chữa (Điều 73)

- Điều 73 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, quy định mới về quyền của người bào chữa: Có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt... Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can...Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này...đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế...thu thập chứng cứ...Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá... Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản;

- Theo nội dung của điều luật thì vai trò của người bào chữa ngày càng được chú trọng; quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo được bảo đảm thông qua các quy định mới bổ sung thêm 05 (năm) quyền mới cho người bào chữa gồm:

+ Một là, quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, khi người bị bắt bị người tiến hành tố tụng lấy lời khai thì người bào chữa cho người bị bắt có quyền có mặt để nghe việc lấy lời khai. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không cho người bào chữa có mặt khi người tiến hành tố tụng lấy lời khai của người bị bắt.

+ Hai là, quyền sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Điều luật quy định mở rộng quyền cho người bào chữa là sau khi người tiến hành tố tụng kết thúc việc lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, kết thúc hỏi cung bị can thì người bào chữa có quyền hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can mà không phải cần đến sự đồng ý của người tiến hành tố tụng.

+ Ba là, quyền được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này. Như vậy, cơ quan tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm báo trước cho người bào chữa biết về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra, thay bằng quy định trước đây của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 là người bào chữa phải đề nghị với cơ quan tiến hành tố tụng báo trước về mặt thời gian, địa điểm.

+ Bốn là, quyền đề nghị thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế. Khi tham gia bào chữa, người bào chữa thấy người bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam không có căn cứ hoặc không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn thì có quyền đến nghị cơ quan tiến hành tố tụng thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.

+ Năm là, quyền thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, quy định số lượng có 04 (bốn) chủ thể được quyền thu thập chứng cứ là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và người bào chữa; trong đó có chủ thể mới là người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ, kiểm tra chứng cứ, đánh giá chứng cứ và trình bày quan điểm về chứng cứ. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, quy định chỉ có 03 (ba) chủ thể được quyền thu thập chứng cứ là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Như vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định số lượng chủ thể được quyền thu thập chứng cứ, kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhiều hơn so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 là 01 (một) chủ thể (người bào chữa).

4/ Về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng (Điều 74)

- Điều luật quy định: Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Theo nội dung của điều luật thì quy định mới của người bào chữa, được tham gia tố tụng từ khi xuất hiện sự kiện pháp lý là người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng của Bộ luật Tống tụng hình sự năm 2003 là từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở Cơ quan điều tra hoặc có mặt tại trụ sở cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là các cơ quan Bộ đội biên phòng; các cơ quan của Hải quan; các cơ quan của Kiểm lâm; các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển; các cơ quan của Kiểm ngư; các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Quy định mới này đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về việc người bị bắt có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa (khoản 4, Điều 31 Hiến pháp).

5/ Về lựa chọn người bào chữa (Điều 75)

- Khoản 1 quy định: Người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn.

- Khoản 2 quy định: Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, bị tạm giữ phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào chữa.

Trong thời hạn 24 giờ kể khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị tạm giam thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Trường hợp người bị tạm giam không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào chữa.

- Khoản 3 quy định: Trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo ngay cho người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để có ý kiến về việc nhờ người bào chữa.

- Khoản 4 quy định: Người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận từ huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương trở lên cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình.

- Cấu tạo của điều luật được xây dựng thành 04 khoản; khoản 1 quy định 03 (ba) đối tượng được quyền lựa chọn người bào chữa là: người bị buộc tội (người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo), người đại diện, người thân thích. So với Bộ luật Tố tụng hình sư năm 2003 thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định số lượng người được lựa chọn người bào chữa nhiều hơn, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định có 02 (hai) người có quyền lựa chọn người bào chữa là người bị buộc tội (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo) và người đại diện hợp pháp.

+ Khoản 1 quy định mới về người có quyền được lựa chọn người bào chữa là người thân thích của họ. Theo quy định của Bộ luật dân sự thì người thân thích gồm có: Vợ, chồng, cha, mẹ, con; nếu không có những người này thì người thân thích là ông, bà, anh ruột, chị ruột, em ruột; nếu không có ai trong số những người này thì người thân thích là bác, chú, cậu, cô, gì. Như vậy, những người là vợ, chồng, cha, mẹ, con; nếu không có những người này thì người thân thích là ông, bà, anh ruột, chị ruột, em ruột; nếu không có ai trong số những người này thì người thân thích là bác, chú, cậu, cô, gì của người bị buộc tội có quyền lựa chọn người bào chữa.

+ Khoản 2 quy định mới về trách nhiệm của cơ quan đang quản lý người bị tạm giam phải chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Nếu yêu cầu bào chữa của người bị tạm giam không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan đang quản lý người bị tạm giam phải có trách nhiệm chuyển đơn yêu cầu bào chữa cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào chữa.

+ Khoản 3 quy định mới về trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam mà có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam, hoặc cơ quan điều tra, hoặc Viện kiểm sát, hoặc Tòa án đang có trách nhiệm giải quyết phải có nhiệm vụ thông báo ngay cho người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam biết về việc người đại diện hoặc người thân thích của họ nhờ người bào chữa để có ý kiến đồng ý hay không đồng về việc nhờ người bào chữa.

Các quy định mới của điều luật này đã góp phần tích cực cho việc quyền của người được bào chữa được bảo đảm; tạo điều kiện cho người bào chữa được liên hệ trao đổi thông tin với người bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam trong việc nhờ người bào chữa. Đồng thời cũng khẳng định ý kiến của người người bị bắt, bị tạm giữ, bị tạm giam đối với việc nhờ người bào chữa được tôn trọng, bảo vệ; thể hiện chính sách của Đảng, Nhà nước về quyền con người được bảo đảm.

6/ Về cấp đăng ký bào chữa (Điều 78)

Điều 78 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định mới về thủ tục đăng ký bào chữa: Trong mọi trường hợp tham gia tố tụng, người bào chữa phải đăng ký bào chữa…. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kiểm tra giấy tờ và thấy không thuộc trường hợp từ chối việc đăng ký bào chữa quy định tại khoản 5 Điều này thì vào sổ đăng ký bào chữa, gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa... Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng...

Thủ tục cấp đăng ký bào chữa của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được rút gọn nhanh chóng hơn so với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định thời hạn cấp giấy chứng nhận bào chữa trong thời hạn là 03 ngày kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa; giấy chứng nhận bào chữa do 03 cơ quan tiến hành tố tụng là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và chỉ có giá trị trong từng giai đoạn tố tụng. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã thay quy định cấp giấy chứng nhận bằng thủ tục đăng ký bào chữa, thời hạn đăng ký bào chữa là 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ liên quan đến việc bào chữa thì vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký bào chữa và văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng. Như vậy, đây là quy định mới về thủ tục đăng ký bào chữa được rút ngắn bằng 1/3 về mặt thời giam, chỉ phải đăng ký 01 (một) lần thay bằng 03 (ba) lần, do 01 (một) cơ quan tiến hành tố tụng cấp thay bằng 03 (ba) cơ quan tiến hành tố tụng cấp so với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

7/ Về trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa (Điều 76)

- Khoản 1 của điều luật quy định trong các trường hợp nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ: Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;

- Phạm vi áp dụng của điều luật đối với đối tượng là người bị khởi tố về hình sự, người bị Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Điều luật quy định 03 (ba) trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa; trong đó có 02 (hai) trường hợp quy định mới:

+ Một là, bị can, bị cáo phạm tội mà khung hình phạt của tội ấy có mức hình phạt cao nhất là 20 năm tù;

+ Hai là, bị can, bị cáo phạm tội mà khung hình phạt của tội ấy có mức hình phạt cao nhất là tù chung thân.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, quy định có 01 (một) trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà khung hình phạt của tội ấy có mức cao nhất là tử hình. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa nhiều hơn so với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 là 02 (hai) trường hợp là trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà khung hình phạt của tội ấy có mức cao nhất là 20 năm và trường hợp bị can, bị cáo phạm tội mà khung hình phạt của tội ấy có mức cao nhất là tù chung thân. Quy định mới này đã mở rộng phạm vi bắt buộc phải có người bào chữa để đảm bảo quyền con người, thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước về quyền con người ngày càng được tôn trọng bảo đảm, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội.

8/ Về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố (Điều 83)

- Khoản 1 quy định: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố là người được người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.

- Khoản 2 quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có thể là: Luật sư; bào chữa viên nhân dân; người đại diện; trợ giúp viên pháp lý.

- Khoản 3 quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền: Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

- Nội dung của điều luật quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, của người bị kiến nghị khởi tố. Đây là quy định mới được nhà làm luật đưa vào Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 chưa có điều khoản nào quy định về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, của người bị kiến nghị khởi tố. Thời điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là từ khi Cơ quan điều tra quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố.

+ Khoản 2 của điều luật quy định có 04 (bốn) người có thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố nếu người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố nhờ bào chữa:

Một là, luật sư;

Hai là, bào chữa viên nhân dân;

Ba là, người đại diện;

Bốn là, trợ giúp viên pháp lý.

+ Khoản 3 quy định người bảo vệ cho người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có 05 (năm) quyền:

Một là, quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; 

Hai là, quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;

 Ba là, quyền có mặt khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố và nếu được Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Sau mỗi lần lấy lời khai của người có thẩm quyền kết thúc thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền hỏi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

Bốn là, quyền có mặt khi đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;

Năm là, quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Bài viết chủ ý làm rõ hơn các chế định mới về bào chữa, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (chương V) Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 nhưng không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế. Rất mong được sự bổ sung đóng góp của bạn đọc.

                                                                  Đỗ Minh Tuấn- Thanh tra VKS thành phố

                                     

Bài viết trước Quy định mới của BLHS 2015 về tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người
Bài viết tiếp theo Điểm mới về khởi tố, hỏi cung bị can, đối chất và nhận dạng của Bộ luật TTHS 2015
In
8379 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều