Bàn về quy định tại khoản 4 điều 34 bộ luật tố tụng dân sự 2015
Từ công tác kiểm sát giải quyết các vụ án dân sự của Viện KSND Thành phố Hà Nội tác giả nêu lên khó khăn, vướng mắc quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án đối với vụ án tranh chấp đất đai và có yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (Quyết định hành chính cá biệt của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện).
Trong phạm vi khuôn khổ bài viết tác giả đưa ra một vấn đề cụ thể để cùng trao đổi về thẩm quyền giải quyết vụ án của Tòa án đối với vụ án tranh chấp đất đai và có yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề này tác giả đưa ra một ví dụ cụ thể sau đây:
Cuối năm 2012, Ông Trần D có mua mảnh đất của cụ Nguyễn T và con gái là bà L.T.N ở tại Xóm N, Thôn L, xã TD, huyện ĐA, Thành phố H với giá 500.000.000đồng (bà là con gái duy nhất của cụ T). Mẹ con cụ T có cam kết khi nào đất của mẹ con cụ T được cấp giấy chứng nhận QSD đất thì sẽ làm thủ tục chuyển nhượng đất cho ông. Việc giao nhận tiền được tiến hành thành nhiều lần, người giao tiền là ông Trần D và người nhận tiền là bà L.T.N. Sau khi ông Trần D giao đủ cho mẹ con cụ T số tiền 500.000.000đồng thì đến ngày 25/5/2013 hai bên lập hợp đồng chuyển nhượng đất tại nhà ông; Bên nhận chuyển nhượng ông Trần D là đại diện ký, còn bên chuyển nhượng do bà L.T.N đại diện ký.
Đến ngày 31/5/2013, hai bên tiến hành giao đất và phân định ranh giới, khi giao đất có cụ Nguyễn T và con gái là bà L.T.N và ông. Diện tích đất bàn giao cụ thể có các cạnh như sau: Phía Đông 20m; Phía Tây 20m; Phía Bắc 6,4m; Phía Nam 6,6m; Việc giao đất các bên lập biên bản. Ông Trần D đã tiến hành xây tường gạch bao quanh diện tích đất nhận chuyển nhượng. Những việc trên mẹ con cụ T đều biết và không có ý kiến gì.
Ngày 29/9/2014, cụ T chết. Đến ngày 04/10/2015, hàng xóm báo cho ông biết là tường gạch mà ông đã xây bao quanh diện tích nhận chuyển nhượng của mẹ con cụ T đã bị đẩy đổ phần phía Đông (giáp với phần đất của mẹ con cụ T) và phần phía Bắc giáp với đường đi. Sự việc trên ông đã báo chính quyền địa phương. UBND xã TD, huyện ĐA, Thành phố H đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Vì vậy, ngày 17/05/2016, ông Trần D gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân huyện ĐA, Thành phố H yêu cầu bà L.T.N phải thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất đã ký ngày 25/5/2013 và làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho ông theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án, ngày 15/7/2016 ông Trần D mới được biết cụ T đã được cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất năm 2014 mang tên cụ Nguyễn T. Sau khi cụ T chết, bà L.T.N đã làm thủ tục kê khai di sản thừa kế và sang tên cho bà L.T.N. Mẹ con cụ T đã không cho ông biết và không làm thủ tục sang tên phần đất chuyển nhượng cho ông như hai bên đã thỏa thuận trước đó. Ngày 15/7/2016, ông Trần D bổ sung yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án hủy Giấy chứng nhận QSD đất số BE 013455 ngày 15/02/2015 của UBND huyện ĐA cấp cho bà L.T.N.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án có hai quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng:
- Giấy chứng nhận QSD đất số BE013455 ngày 15/02/2015 của UBND huyện ĐA cấp cho bà L.T.N là quyết định hành chính cá biệt không phải là đối tượng khởi kiện trong vụ án dân sự mà chỉ là một quyết định liên quan trong cùng một vụ án nên không cần thiết phải là tòa cấp tỉnh xử.
- Các vụ án tranh chấp đất đai liên quan tới yêu cầu hủy quyết định cá biệt của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện đều chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh dẫn đến án sẽ dồn lên tòa cấp tỉnh rất nhiều và gây khó khăn cho người dân trong quá trình thưa kiện.
Tòa án nhân dân huyện ĐA - Thành phố H thụ lý vụ án dân sự ngày 17/05/2016, đến ngày 15/7/2016 ông Trần D mới phát sinh yêu cầu đề nghị Tòa án hủy Giấy chứng nhận QSD đất số BE013455 ngày 15/02/2015 của UBND huyện ĐA cấp cho bà L.T.N. Căn cứ Khoản 4 Điều 34 BLTTDS 2015; khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định:
Đối với những khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện đã được Tòa án nhân dân cấp huyện thụ lý giải quyết trước ngày 01 tháng 7 năm 2016 thì Tòa án đã thụ lý tiếp tục giải quyết theo thủ tục chung mà không chuyển cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh giải quyết;
Và theo hướng dẫn tại mục 2 Phần IV Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/04/2017 của Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố tụng dân sự thì vụ án trên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện ĐA giải quyết.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Theo quy định tại Điều 203 Luật đất đai. Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện 2015. Tuy nhiên, theo Khoản 4 Điều 34 BLTTDS 2015 quy định:
“Thẩm quyền của cấp Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc hủy quyết định cá biệt quy định tại khoản 1 Điều này được xác định theo quy định tương ứng của Luật tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án nhân dân cấp tỉnh”.
Khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định: Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện trên cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh.
Do vậy, theo Khoản 4 Điều 34 BLTTDS 2015; Khoản 4 Điều 32 Luật tố tụng hành chính năm 2015 thì vụ án trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tòa án nhân dân huyện ĐA phải chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Thành phố H giải quyết là đúng quy định.
Nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Luật TTHC năm 2015, tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai với các lý do sau:
Một là: Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội hướng dẫn về việc thi hành Luật tố tụng hành chính. Do vậy, khoản 5 Điều 1 Nghị quyết số 104 quy định về trường hợp Tòa án đã thụ lý vụ án hành chính trước ngày 01/07/2016 nên không áp dụng văn bản này để giải quyết vụ án dân sự.
Hai là: Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/04/2017 của TANDTC là văn bản giải đáp một số vướng mắc trong thực hiện BLTTDS 2015 và Luật TTHC 2015 để hướng dẫn trong ngành Tòa án. Đây không phải là văn bản quy phạm pháp luật, không phù hợp với các quy định của BLTTDS, Luật TTHC như phân tích trên.
Qua phân tích và dẫn chứng vụ việc cụ thể như trên, có thể thấy khi áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền giải quyết vụ án tranh chấp đất đai và có yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất củaTòa án vẫn còn lúng túng, bất cập. Quan điểm giữa các ngành Tòa án và Viện kiểm sát chưa thống nhất. Do vậy để phù hợp với tình hình thực tế, thiết nghĩ 02 ngành Tòa án và Viện kiểm sát cần có văn bản hướng dẫn đầy đủ, cụ thể và rõ ràng hơn để xác định đúng thẩm quyền giải quyết vụ án theo quy định tại Khoản 4 Điều 34 BLTTDS 2015.
Lê Thị Hồng Hạnh - Phòng 9