Các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện theo quy định của BLTTDS 2015

Nguyễn Thành Lâm

       Trả lại đơn khởi kiện trong tố tụng dân sự là việc Tòa án sau khi xem xét thụ lý vụ án, đã trả lại đơn khởi kiện và các chứng cứ khi có một trong các căn cứ được pháp luật tố tụng dân sự quy định. Việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện ảnh hưởng trực tiếp đến quyền của đương sự - cụ thể là người khởi kiện; đó là quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết bằng một vụ án dân sự. Kiểm tra tính đúng đắn của việc trả lại đơn khởi kiện là hoạt động của Viện kiểm sát. Bài viết sau đề cập đến các quy định của pháp luật về trả lại đơn khỏi kiện và các biện pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc trả lại đơn khỏi kiện của Tòa án.

       1. Các trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện

       Thứ nhất, Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;

       Thứ hai, Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật - trường hợp pháp luật có quy định về các điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó;

       Thứ ba, Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án được quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật;

       Thứ tư, Hết thời hạn quy định người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án mà không có lý do chính đáng;

       Thứ năm, Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;

       Thứ sáu, Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật này;

       Thứ bảy, Người khởi kiện rút đơn khởi kiện.

       So với BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung 2011 (gọi tắt là BLTTDS 2004), BLTTDS 2015 bổ sung thêm 2 trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện: Không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của BLTTDS 2015; Người khởi kiện rút đơn khởi kiện. Ngoài ra, BLTTDS 2015 cũng đã giải thích rõ như thế nào là trường hợp chưa đủ điều kiện khởi kiện.

       2. Thủ tục trả lại đơn khởi kiện

       Khoản 2 Điều 192 BLTTDS 2015 bổ sung thủ tục sao lại và lưu tại Tòa án đơn khởi kiện và các tài liệu liên quan khi trả lại đơn khởi kiện để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu. Ngoài ra, Điều 194 BLTTDS 2015 cũng nâng thời gian người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị việc trả lại đơn khởi kiện lên 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo trả lại đơn khởi kiện.

       Khoản 2 Điều 168 BLTTDS 2004 quy định: “Khi trả lại đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện, Tòa án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, đồng thời gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp”.  Văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện trên thực tế chính là Thông báo trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Theo quy định này, hoạt động kiểm sát Thông báo trả lại đơn khởi kiện của Tòa án chỉ dừng lại ở mức độ kiểm tra về hình thức của hoạt động trả lại đơn. Còn thực chất, Viện kiểm sát không có cơ sở pháp lý để kiểm tra xem lý do trả lại đơn được nêu trong văn bản của Tòa án có đúng căn cứ, quy định pháp luật không? Bởi vì, khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện thì cũng trả lại toàn bộ tài liệu, chứng cứ kèm theo cho người khởi kiện. Muốn biết được lý do trả lại đơn có đúng quy định hay không, Kiểm sát viên phải nghiên cứu toàn bộ tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo đơn khởi kiện. Tuy nhiên, khi nhận được Thông báo trả lại đơn khởi kiện, Kiểm sát viên không thể nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ được vì tòa án không còn lưu giữ những tài liệu đó. Vì vậy, không thể đánh giá được, hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án có chính xác, có căn cứ pháp luật hay không.

       Do đó, trước khi BLTTDS 2015 có hiệu lực thi hành, việc kiểm sát hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án vẫn chỉ được thực hiện một cách hình thức. Khắc phục được bất cập lớn nhất của Điều 168 BLTTDS 2004 sửa đổi bổ sung 2011, khoản 2 Điều 192 BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm thủ tục mới: “Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao chụp và lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu”.

       Theo quy định này, Thẩm phán buộc phải sao chụp và lưu tại Tòa án toàn bộ đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ đã trả lại cho người khởi kiện. Như đã phân tích ở trên, quy định mới này tạo cơ sở pháp lý để Viện kiểm sát nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát hoàn toàn có thể nghiên cứu hồ sơ lưu tại Tòa án để xem xét, đánh giá tính hợp pháp, có căn cứ của việc Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện. Chỉ có như vậy, Viện kiểm sát mới thực hiện được một cách hiệu quả và thực chất quyền năng kiến nghị của mình để hoạt động trả lại đơn khởi kiện của Tòa án được thẩm định, kiểm tra bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng.

       3. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát trả lại đơn khởi kiện

       BLTTDS 2015 mở ra hành lang pháp lý để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát. Để nâng cao hiệu quả trong thực hiện công tác kiểm sát trả lại đơn khởi kiện của Tòa án cần:

       Một là: Liên ngành Tòa án, Viện kiểm sát. Tòa án cần có sự phối hợp thực hiện nghiêm túc việc gửi Thông báo trả lại đơn khởi kiện cho Viện kiểm sát một cách đầy đủ và kịp thời. Mặt khác, thường kỳ 06 tháng 01 lần, Viện kiểm sát phối hợp với Tòa án đối chiếu việc giao nhận Thông báo trả lại đơn của Tòa án sang Viện kiểm sát có đầy đủ và kịp thời hay không.

       Hai là: Kiểm sát viên được phân công kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án, định kỳ báo cáo với Lãnh đạo đơn vị cũng như lãnh đạo hai ngành trong các cuộc họp liên ngành giữa Viện kiểm sát và Tòa án về công tác phối hợp hai ngành nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện.

       Ba là: Kiểm sát viên được phân công thực hiện công tác Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện cần nghiên cứu kỹ các văn bản pháp luật có liên quan, học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kiểm sát chặt chẽ căn cứ trả lại đơn khởi kiện.

       Trường hợp lý do trả lại đơn là do đã quá thời hạn ghi trong Thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện mà người khởi kiện, người yêu cầu không sửa đổi bổ sung, tài liệu chứng cứ hoặc có sửa đổi, bổ sung nhưng không đủ hoặc không đúng yêu cầu của Tòa án thì cần chú ý: Xác định theo căn cứ của pháp luật tố tụng và nội dung thì những tài liệu, chứng cứ mà Tòa án yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung là có căn cứ hay không? Trường hợp thiếu thì có thể thụ lý để giải quyết thì có đúng quy định pháp luật hay không?

       Việc Tòa án yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung tài liệu, chứng cứ có hợp lý không, bởi nhiều trường hợp Tòa án yêu cầu bổ sung những chứng cứ mà người khởi kiện không thể nào bổ sung được (như trường hợp tài liệu, chứng cứ đang thuộc sự quản lý của cơ quan có thẩm quyền, người khởi kiện không thể nào nào cung cấp cho Tòa án được mà chỉ trong quá trình giải quyết vụ án sau khi Tòa án thụ lý đương sự mới có thể yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ đối với những chứng cứ không thể tự mình thu thập được). Nếu phát hiện vi phạm trong trả lại đơn, Viện kiểm sát có kiến nghị yêu cầu Tòa án thực hiện thủ tục thụ lý đơn khởi kiện của người khởi kiện và tiến hành giải quyết vụ án.

       Bốn là: BLTTDS 2015 đã có thay đổi đột phá đối với việc trả lại đơn của Tòa án đặc biệt là quy định rõ đối với trường hợp trong đơn khởi kiện người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng người khởi kiện không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú; quy định mới đối với hình thức gửi đơn khởi kiện bằng cách gửi trực tuyến qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Đây là những căn cứ quan trọng để Tòa án xem xét thụ lý hay không thụ lý và trả lại đơn cho người khởi kiện. Do đó, các cán bộ, Kiểm sát viên cần nghiên cứu, cập nhật văn bản pháp luật, cũng như phải trang bị kiến thức tin học đáp ứng yêu cầu để kiểm sát thời gian Tòa án nhận đơn, trả đơn của người khởi kiện theo quy định mới nhất của pháp luật.

       Năm là: Cán bộ được phân công thực hiện công tác thống kê báo cáo cần lập sổ sách theo dõi gồm các cột mục: Thông báo trả đơn khởi kiện (số, ngày, tháng, năm), họ tên người khởi kiện, nội dung trả lại đơn và các vi phạm trong việc trả lại đơn của Tòa án.

                                      Th.S Nguyễn Văn Điền - Viện KSND thị xã Sơn Tây

Bài viết trước Một số vấn đề về thừa kế thế vị trong Bộ Luật dân sự năm 2015
Bài viết tiếp theo Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết tội phạm sử dụng công nghệ cao thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
In
1278 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều