Hiệu quả công tác kháng nghị của Viện KSND thành phố Hà Nội từ thực tiễn xét xử các vụ án hành chính

BTV Phòng 10

        Thực hiện Chỉ thị số 01/CT-VKSTC ngày 12/12/2024 của Viện trưởng Viện KSND tối cao về công tác trọng tâm Ngành kiểm sát nhân dân năm 2025, theo đó “Tiếp tục xác định công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính là nhiệm vụ trọng tâm đột phá của Ngành trong năm 2025” và Nghị quyết 96/2019/QH14 ngày 27/11/2019, Chỉ tiêu Quốc hội giao cho Ngành kiểm sát trong khâu công tác Kiểm sát giải quyết các vụ án Hành chính, KDTM, Lao động và các việc khác theo quy định của pháp luật gồm: Nâng cao chất lượng phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa dân sự, hành chính. Tăng cường hơn nữa trách nhiệm của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, vụ án hành chính. Bảo đảm các kiến nghị, kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với các loại án phải có căn cứ và đúng pháp luật; nâng cao trách nhiệm và tỷ lệ kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát ngang cấp trên tổng số kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát; tỷ lệ các kháng nghị phúc thẩm được Tòa án chấp nhận đạt trên 70%; tỷ lệ các kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm được Tòa án chấp nhận đạt trên 75%; tỷ lệ các kiến nghị được các cơ quan, đơn vị hữu quan chấp nhận đạt trên 80%. Các chỉ tiêu này đã được cụ thể hóa trong Hệ thống chỉ tiêu cơ bản ban hành kèm theo Quyết định 139/QĐ-VKSTC ngày 29/4/2020 của Viện trưởng Viện KSND tối cao.

        Án hành chính là loại án khó, người bị kiện lại là chủ thể đặc biệt, hơn nữa, án hành chính liên quan chủ yếu đến khiếu kiện trong công tác quản lý hành chính Nhà nước về đất đai, đây là lĩnh vực phức tạp và nhạy cảm trong đời sống xã hội (chiếm khoảng 90% án hành chính nói chung). Đồng thời án hành chính liên quan đến nhiều văn bản pháp luật, nghị định, thông tư. Do đó, để giải quyết một vụ án hành chính đạt hiệu quả, đúng quy định của pháp luật thì mỗi kiểm sát viên phải nghiên cứu hồ sơ đầy đủ từ giai đoạn thụ lý vụ án đến khi kết thúc phiên tòa.

        Thực tiễn giải quyết án hành chính cho thấy, để thực hiện tố công tác kháng nghị, ngoài sự quan tâm của lãnh đạo viện, mỗi kiểm sát viên làm khâu công tác này đều phải tâm huyết, trách nhiệm và có phương pháp, kỹ năng phát hiện vi phạm để từ đó tham mưu cho lãnh đạo Viện ban hành kháng nghị đạt hiệu quả. Một số vụ án điển hình có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội là minh chứng rõ nét cho kết quả thực hiện công tác kháng nghị trong thời gian qua.

        Tóm tắt nội dung vụ án thứ nhất về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”:

        Thửa đất số 261, tờ bản đồ số 9 được UBND quận L.B cấp GCNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất ngày 10/9/2018 với diện tích 222,8m2 cho ông Chu Bá Thuế và bà Kiều Thị Mỹ, địa chỉ thửa đất tại tổ 7, phường P, quận L.B, Tp.Hà Nội, mục đích sử dụng: đất trồng cây lâu năm. Quá trình sử dụng đất, ông Thuế và bà Mỹ đã tặng con đẻ là ông Chu Bá T theo Hợp đồng số 4345/2018 tại Văn phòng Công chứng G ngày 11/10/2018.

        Thực hiện dự án “Xây dựng tuyến đường 13,5m theo quy hoạch từ đường 21m đến hành lang chân đê Đuống – PĐ (ngõ 279 PL), phường P, quận L.B”, ngày 28/3/2022, UBND quận L.B đã ban hành Quyết định số 1437/QĐ-UBND về việc thu hồi 118m2 đất đối với ông Chu Bá T đang sử dụng tại phường P, quận L.B và Quyết định số 1439/QĐ-UBND phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với hộ gia đình ông Chu Bá T như sau:

        + Tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ được nhận: 182.056.745 đồng, có phương án chi tiết kèm theo như sau: Bồi thường về đất: 118 m2 x 252.000 đồng = 29.736.000 đồng; Bồi thường, hỗ trợ về tài sản gắn liền với đất thu hồi: 125.126.745 đồng; Hỗ trợ ổn định đời sống: 6.840.000 đồng; Hỗ trợ nhà tạm cư: 15.000.000 đồng; Bồi thường di chuyển chỗ ở: 5.000.000 đồng; Thưởng tiến độ: 354.000 đồng).

        Ông T đã có đơn khiếu nại Quyết định số 1439/QĐ-UBND ngày 28/3/2022 của UBND quận L.B. Ngày 27/5/2022, Chủ tịch UBND quận L.B đã ban hành Quyết định số 2455/QĐ-UBND giải quyết khiếu nại của ông Chu Bá T (lần đầu) với nội dung: Giữ nguyên Quyết định số 1439/QĐ-UBND.

        Ông T tiếp tục có đơn khiếu nại lần hai nhưng sau đó có đơn xin rút đơn khiếu nại. Ngày 29/8/2022, UBND thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 3104/QĐ-UBND về việc đình chỉ giải quyết khiếu nại lần hai của ông T với lý do người khiếu nại có đơn xin rút khiếu nại.

        Ngày 19/8/2022, ông T khởi kiện tại TAND TP.Hà Nội cho rằng giá bồi thường về đất chưa đúng quy định tại khoản 2 Điều 4 Quyết định số 30/2019/QĐ-UBND của UBND TP.Hà Nội và các khoản hỗ trợ khác về đất chưa đủ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 23 Quyết định số 10/2017/QĐ-UBND của UBND TP.Hà Nội vì gia đình ông xây dựng công trình trên đất từ năm 2001 mà không có văn bản ngăn chặn hay bị xử lý gì. Ông T đề nghị TAND thành phố Hà Nội:

        + Hủy bỏ Quyết định số 1439/QĐ-UBND ngày 28/3/2022 của UBND quận L.B về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với ông Chu Bá T và Quyết định số 2455/QĐ-UBND ngày 27/5/2022 của Chủ tịch UBND quận L.B về việc giải quyết khiếu nại lần đầu của ông Chu Bá T.

        Ngày 15/12/2022, UBND quận L.B ban hành Quyết định số 9556/QĐ-UBND về việc điều chỉnh, bổ sung tiền bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại khoản 3 Điều 1 Quyết định số 1439/QĐ-UBND ngày 28/3/2022 như sau:

        - Tổng số tiền điều chỉnh bồi thường, hỗ trợ: 83.417.830 đồng.

        - Lý do điều chỉnh: Điều chỉnh mức bồi thường công trình nhà.

        TAND thành phố Hà Nội đã thụ lý và giải quyết vụ án. Tại Bản án HCST số 135/2024/HC-ST ngày 07/6/2024 của TAND thành phố Hà Nội xử: - Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Chu Bá T.

        Quá trình kiểm sát giải quyết vụ án và kiểm sát kết quả giải quyết tại phiên tòa sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội nhận thấy: Bản án HCST số 135/2024/HC-ST ngày 07/6/2024 của TAND thành phố Hà Nội đã không đánh giá đúng tài liệu có trong hồ sơ vụ án, áp dụng pháp luật không đúng dẫn đến ra Bản án vi phạm Điều 66, 69 Luật Đất đai năm 2013; điểm b khoản 1 Điều 23 Quyết định số 10/2017/QĐ-UBND của UBND TP.Hà Nội, làm ảnh hưởng tới quyền lợi của ông Chu Bá T. Do đó, ngày 21/6/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 06/QĐ-VKS-HC đối với Bản án Hành chính sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội theo hướng sửa bản án nêu trên. Trong nội dung kháng nghị Viện kiểm sát đã chỉ ra những vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm, cụ thể như sau:

        * Đối với Quyết định số 1439/QĐ-UBND ngày 28/3/2022 của UBND quận L.B về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với ông Chu Bá T.

        - Theo Giấy xác nhận về việc sử dụng đất, về các tài sản gắn liền với đất số 225/XNNNGĐ-UBND ngày 19/11/2021 của UBND phường P: thửa đất số 261, tờ bản đồ số 09 có diện tích 222,8m2 tại tổ 7, phường P, quận L.B, TP.Hà Nội của gia đình ông T là đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, diện tích đất bị thu hồi tại thửa đất này là 118m2. Công trình nhà ở được xây dựng trên diện tích đất trên từ sau ngày 15/10/1993 đến trước ngày 01/7/2004 và không có văn bản xử lý, ngăn chặn của cấp có thẩm quyền.

        - Tại Bản tự khai ngày 10/7/2023 của UBND phường P nêu rõ về hiện trạng sử dụng đất: Trên đất, gia đình ông Chu Bá T đã xây dựng nhà ở và các công trình phụ trợ để sử dụng. Xung quanh, các hộ liền kề với gia đình ông Chu Bá T đã xây dựng các công trình, nhà ở và tường rào bao quanh làm ranh giới sử dụng đất. Như vậy, diện tích đất gia đình ông T bị thu hồi là đất trồng cây lâu năm tại tổ 7, phường P, quận L.B, TP.Hà Nội nằm trong khu dân cư đô thị. Việc UBND quận L.B chỉ bồi thường cho gia đình ông T theo giá đất nông nghiệp là không phù hợp mà phải áp dụng điểm b khoản 1 Quyết định số 10/2017/QĐ-UBND ngày 29/3/2017 của UBND thành phố Hà Nội ban hành quy định các nội dung thuộc thẩm quyền của UBND thành phố Hà Nội về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội, để hỗ trợ bằng 40% đơn giá đất ở mới đảm bảo quyền lợi của gia đình ông Chu Bá T. Yêu cầu khởi kiện của ông T là có căn cứ. Do đó, cần hủy bỏ một phần Quyết định số 1439/QĐ-UBND ngày 28/3/2022 của UBND quận L.B về tiền bồi thường về đất và tiền hỗ trợ khi thu hồi đất của gia đình ông T.

        - Đối với Quyết định số 9556/QĐ-UBND ngày 15/12/2022 của UBND quận L.B: Mặc dù, ông T không có thắc mắc, khiếu kiện gì về phần bồi thường công trình trên đất nhưng do cần hủy bỏ khoản 3 Điều 1 Quyết định số 1439/QĐ-UBND như đã phân tích ở trên nên buộc phải hủy bỏ phần Điều 1 của Quyết định số 9559/QĐ-UBND.

        - Đối với Quyết định số 2455/QĐ-UBND ngày 27/5/2022 của Chủ tịch UBND quận L.B: có nội dung xác định khiếu nại của ông T là sai và giữ nguyên Quyết định số 1439/QĐ-UBND. Như đã phân tích ở trên, Quyết định số 1439/QĐ-UBND ngày 28/3/2022 của UBND quận L.B có nội dung chưa phù hợp với quy định của pháp luật, ảnh hưởng tới quyền lợi của ông Chu Bá T nên cần phải hủy. Quyết định số 2455/QĐ-UBND xác định khiếu nại của ông T là không có căn cứ, giữ nguyên Quyết định số 1439/QĐ-UBND là không đúng nên cần thiết phải hủy bỏ. Yêu cầu khởi kiện của ông T là có căn cứ.

        Ngày 18/3/2025, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án trên và quyết định “chấp nhận toàn bộ kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội; Sửa Bản án sơ thẩm theo hướng hủy một phần Quyết định số 1439/QĐ-UBND và Quyết định số 9556/QĐ-UBND ngày 15.12.2022 của UBND quận L.B; Hủy một phần QĐ số 2455/QĐ-UBND ngày 27.5.2022 của Chủ tịch UBND quận L.B.

        Tóm tắt nội dung vụ án thứ hai về “Khiếu kiện quyết định giải quyết tranh chấp đất đai”:

        Anh Nguyễn Văn T đề nghị giải quyết tranh chấp quyền sử dụng 24m2 đất thuộc thửa số 239, tờ bản đồ số 05 đo đạc năm 1993 tại thôn K.T, xã K.L, huyện S, thành phố Hà Nội với gia đình ông Nguyễn Văn Đ. Ranh giới đất tranh chấp: Phía Bắc giáp đất gia đình bà Nguyễn Thị Đ (mẹ anh T) đang sử dụng; Phía Nam giáp đường làng; Phía Đông giáp đất cổng vào nhà bà Đ và anh T; Phía Tây giáp đất cụ L đang sử dụng. Hiện trạng đất, ông Đ đã xây bờ gạch quây xung quanh và đang trồng chuối.

        Theo anh T trình bày: Cụ Nguyễn Văn Th (ông nội anh T) có thửa đất ao 361m2 từ những năm 1950 do cha ông để lại, sử dụng để thả bèo và trồng cây ăn quả trên bờ ao. Gia đình anh T và gia đình ông Đ có quan hệ họ hàng xa nên từ năm 1981-1982, cụ Th có cho cụ M (mẹ ông Đ) trồng nhờ một búi tre trên diện tích đất khoảng 2m2 (không có giấy tờ gì), còn diện tích đất ở của gia đình ông Đ ở bên kia đường. Năm 1991, cụ Th chết, gia đình ông Nguyễn Văn Th1 (bố đẻ của anh T) tiếp tục sử dụng đất ao. Năm 1996- 1997, nhà cụ M chặt tre, trồng chuối và xây tường xung quanh cao khoảng 1m với diện tích 24m2 như hiện nay. Gia đình bà Đ (mẹ anh T) biết việc này đã sang nói chuyện với gia đình bà M thì vợ ông Đ nói gia đình bà Đ chưa sử dụng đến thì cho gia đình ông Đ mượn, khi nào gia đình bà sử dụng thì gia đình ông Đ sẽ trả. Sau khi ông Th1 chết (năm 2016), gia đình bà Đ tiếp tục xây dựng 01 nhà khác cho con gái là Nguyễn Thị Mến ở vào năm 2019. Lúc này bà Đ có sang nói chuyện với nhà ông Đ để đòi lại phần đất này nhưng gia đình ông Đ không trả nên xảy ra tranh chấp. Diện tích đất đang tranh chấp thuộc 1 phần thửa đất ao số 128 diện tích 357m2 mà ông Nguyễn Văn Th1 đã đứng tên trong Sổ mục kê năm 1987. Sổ tính diện tích năm 1993, ông Th1 đã ký tên ở cả 2 thửa 239 và 240 nhưng không biết vì sao tại thửa 239 đã bị gạch chữ “Th1” rồi viết chữ “Đ” ở 2 bên chữ “Th1”.

        Ông Đ trình bày: Nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là do cha ông để lại. Khi ông sinh ra (năm 1963) và lớn lên đã thấy bố mẹ ông sử dụng để trồng tre, đến năm 1990 chặt tre và chồng chuối đến nay. Năm 1990, ông có xây vài viên gạch để đặt móng xung quanh và năm 1999 ông mới xây hoàn thiện móng xung quanh diện tích 24m2 đất này. Từ xưa đến giờ, kể cả khi cụ Th và ông Th1 còn sống không bao giờ nói là mẹ ông mượn đất của cụ Th. Cuối năm 2019, ông nhận được công văn của UBND xã K.L thông báo gia đình anh T có đơn kiến nghị gia đình ông mượn đất của cụ Th. Cũng cuối năm 2019, bà Đ xây nhà và lát sân đến giáp đất nhà ông (đất đang tranh chấp) nên ông mới tiếp tục xây tường bao cao lên trên phần móng tường cũ của gia đình có sẵn. Ông Đ xác định gia đình không có giấy tờ gì liên quan đến việc sử dụng đất của gia đình tại vị trí đất tranh chấp và chưa được cấp GCNQSD đất.

        Báo cáo số 23/BC-UBND ngày 04/3/2021, UBND xã K.L xác định: Nguồn gốc thửa đất số 239, tờ bản đồ 05, diện tích 24m2 do gia đình ông Đ sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993 đến năm 2019 xảy ra tranh chấp với gia đình anh T. Trước năm 1980, phần đất này được trồng tre, đến năm 1982 xây dựng thêm cầu tiêu và sau này gia đình ông Đ chặt bỏ tre, phá bỏ công trình cầu tiêu. Đến khoảng năm 1999, gia đình ông Đ xây bờ bao phân định ranh giới giữa hai gia đình và trồng chuối.

        Ngày 14/4/2021, Chủ tịch UBND huyện S ban hành Quyết định số 1351/QĐ-UBND về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa anh Nguyễn Văn T với ông Nguyễn Văn Đ đã quyết định: Không chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Văn T về việc đòi quyền sử dụng đối với 24m2 đất tại thửa số 239, tờ bản đồ số 05 thôn K.T, xã K.L vì không có cơ sở để xem xét, giải quyết.

        Không đồng ý với Quyết định số 1351/QĐ-UBND, ngày 14/5/2021 anh T có đơn khiếu nại gửi Chủ tịch UBND huyện S nhưng không được xử lý đơn theo thẩm quyền.

        Ngày 14/7/2021, anh T khởi kiện vụ án yêu cầu Tòa án: Hủy Quyết định số 1351/QĐ-UBND ngày 14/4/2021 của Chủ tịch UBND huyện S, với những căn cứ sau:

        Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 207/2023/HC-ST ngày 23 tháng 8 năm 2023, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Luật Đất đai các năm 1987, 1993, 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành, quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn Thực: “Tuyên hủy toàn bộ Quyết định số 1351/QĐ-UBND ngày 14/4/2021 của Chủ tịch UBND huyện Sóc Sơn giải quyết tranh chấp đất đai giữa anh Nguyễn Văn Thực với ông Nguyễn Văn Đức tại thôn Kim Chung, xã Kim Lũ, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội”.

        Quá trình kiểm sát giải quyết vụ án và kiểm sát kết quả giải quyết tại phiên tòa sơ thẩm, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội nhận thấy: diện tích đất tranh chấp chưa được cấp GCNQSD đất và không có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013, Điều 15 Thông tư số 02/2015/TT-BTNMT và Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ- CP; cả gia đình anh T và gia đình ông Đ đều không cung cấp được tài liệu, văn bản nào thể hiện diện tích đất đang tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình, cũng như đã thực hiện việc kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất và việc hoàn thành nghĩa vụ tài chính với Nhà nước. Đối với tài liệu địa chính liên quan đến thửa đất tranh chấp qua các thời kỳ, nhất là thời kỳ trước năm 1993 do UBND xã K.L lưu giữ có nhiều điểm không rõ, thiếu cơ sở pháp lý để khẳng định quyền sử dụng đất thuộc về ai hoặc có việc trao đổi, thỏa thuận gì về việc chuyển quyền sử dụng đất giữa gia đình các bên hay không. Phía gia đình anh T trình bày đã cho gia đình ông Đ mượn, trồng cây nhờ trên đất nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh, trong khi đó trên thực tế gia đình ông Đ đã quản lý, sử dụng đất từ những năm 1980 đến nay, đã trồng tre sau đó trồng chuối, xây tường bao trên đất. Do đó, việc Chủ tịch UBND huyện S xác định không có sơ sở để xem xét, giải quyết đề nghị của anh T về việc buộc gia đình ông Đ trả lại diện tích đất 24m2, để từ đó quyết định không chấp nhận yêu cầu của anh T là có căn cứ, phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật. Việc Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T là không có cơ sở.

        Do đó, ngày 31/8/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 11/QĐ-VKS-HC đối với Bản án Hành chính sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội theo hướng sửa bản án theo hướng “Bác yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện và giữ nguyên Quyết định số 1351/QĐ-UBND ngày 14/4/2021 của Chủ tịch UBND huyện S”.

        Ngày 18/3/2025, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án trên và quyết định “chấp nhận toàn bộ kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội; Sửa Bản án sơ thẩm theo hướng: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn T về việc tuyên huyền Quyết định số 1351/QĐ-UBND ngày 14/4/2021 của Chủ tịch UBND huyện S về việc giải quyết tranh chấp đất đai giữa anh Nguyễn văn T và ông Nguyễn Văn Đức…”.

        Qua các vụ án trên cho thấy công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính đã được lãnh đạo Viện kiểm sát thành phố Hà Nội quan tâm kịp thời, hơn nữa, với tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, kiểm sát viên phòng 10, công tác kháng nghị ngày càng được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự được bảo đảm, từ đó hạn chế khiếu kiện vượt cấp, kéo dài, tạo điểm nóng góp phần ổn định tình hình an ninh, chính trị trên địa bàn thủ đô.

Dương Vân Anh - Phòng 10 VKSND thành phố Hà Nội

In
22 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
Tin mới nhất
Tin đọc nhiều