GIỚI THIỆU BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
VÀ NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ VIỆC THI HÀNH BỘ LUẬT
Thực hiện chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XIII, Viện kiểm sát nhân dân tối cao được giao nhiệm vụ phối hợp với cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan hữu quan để tham gia xây dựng dự án Bộ luật hình sự (sửa đổi).
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 (sau đây được gọi là BLHS năm 2015) và Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật; ngày 18/12/2015, Chủ tịch nước đã ký Lệnh số 33/2015/L-CTN công bố Bộ luật và Nghị quyết này.
Sau đây, website Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội xin gửi đến quý bạn đọc tài liệu về giới thiệu những điểm mới, sửa đổi, bổ sung cơ bản của BLHS năm 2015 và nội dung Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật do Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao ban hành.
I. MỤC TIÊU, PHẠM VI VÀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG BLHS
Việc xây dựng BLHS lần này nhằm xây dựng một BLHS phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước sau khi có Hiến pháp năm 2013; có tính minh bạch, tính khả thi và tính dự báo cao hơn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của BLHS, phát huy hơn nữa vai trò của Bộ luật với tư cách là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ các quyền con người, quyền công dân, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng, đấu tranh chống tham những có hiệu quả, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước.
Để thực hiện mục tiêu này, việc xây dựng BLHS năm 2015 được xác định là sửa đổi cơ bản, toàn diện và đã quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau đây:
1. Thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, đường lối của Đảng thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách Tư pháp đến năm 2020, đặc biệt là chủ trương: "Đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm. Khắc phục tình trạng hình sự hoá quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự và bỏ lọt tội phạm. Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế”.
2. Thể hiện đúng tinh thần và cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, đồng bộ với các luật, bộ luật khác trong hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, toàn diện và cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đấu tranh chống tham nhũng, đồng thời bảo đảm mọi người được sống trong một môi trường an toàn, lành mạnh, dân chủ và tiến bộ.
3. Việc xây dựng Bộ luật dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn, kế thừa, phát triển các quy định còn phù hợp của BLHS năm 1999, bổ sung những quy định mới để giải quyết những vướng mắc, bất cập đang đặt ra trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, sửa đổi hoặc loại bỏ những quy định không còn phù hợp; đồng thời hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự nhằm bảo đảm tính thống nhất nội tại của BLHS và tính thống nhất của hệ thống pháp luật; nâng cao tính minh bạch, khả thi và tính dự báo của BLHS.
4. Đổi mới nhận thức về chính sách hình sự mà trọng tâm là đổi mới quan niệm về tội phạm và hình phạt, về cơ sở của trách nhiệm hình sự, về chính sách xử lý đối với một số loại tội phạm và loại chủ thể phạm tội, đảm bảo các quy định của BLHS không chỉ là công cụ pháp lý để các cơ quan chức năng đấu tranh, trấn áp tội phạm mà còn là cơ sở pháp lý để bảo vệ sự phát triển lành mạnh các quan hệ kinh tế - xã hội; bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội; khuyến khích mọi người dân chủ động tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số nước trong khu vực và trên thế giới.
5. Tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm; nội luật hóa các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
II. NHỮNG NỘI DUNG MỚI, SỬA ĐỔI, BỔ SUNG CƠ BẢN CỦA BLHS NĂM 2015
BLHS 2015 gồm có 26 chương với 426 điều, được thiết kế thành 03 phần, Phần thứ nhất: Những quy định chung (gồm 12 chương, từ Điều 01 đến Điều 107); Phần thứ hai: Các tội phạm (gồm 14 chương, từ Điều 108 đến Điều 425); và Phần thứ ba: Điều khoản thi hành (gồm 01 điều - Điều 426).
Sau đây là những nội dung mới, sửa đổi, bổ sung cơ bản của Bộ luật.
1. Bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
1.1. Quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
BLHS năm 1999 không quy định trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với pháp nhân, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định TNHS của pháp nhân thương mại. Đây là một nội dung mới, quan trọng, làm thay đổi cơ bản chính sách hình sự truyền thống, bên cạnh nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, luật hình sự Việt Nam đã đặt ra TNHS của pháp nhân thương mại trong một số tội theo quy định của Bộ luật. Điều này, đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng và Nhà nước về đấu tranh, xử lý tội phạm trong tình hình hiện nay, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong quá trình xây dựng dự thảo Bộ luật và qua kết quả lấy ý kiến Nhân dân, đa số đã tán thành việc quy định TNHS của pháp nhân. Qua thảo luận, Quốc hội đã nhất trí thông qua việc bổ sung các quy định mới về TNHS đối với pháp nhân, trong đó: sửa đổi cơ sở TNHS (Điều 2) xác định rõ đối tượng là pháp nhân thương mại phạm một trong các tội được quy định tại Điều 76 của Bộ luật thì phải chịu TNHS; bổ sung nguyên tắc xử lý pháp nhân phạm tội (Điều 3); quy định pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 6); mở rộng khái niệm tội phạm bao gồm cả pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 8); quy định các hình phạt chính (phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn) và hình phạt bổ sung (cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; cấm huy động vốn; và phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính) (Điều 33); bổ sung một chương mới (Chương XI. Những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội gồm các điều từ Điều 74 đến Điều 89) quy định về điều kiện, phạm vi chịu TNHS; các hình phạt và biện pháp tư pháp cụ thể áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS; việc quyết định hình phạt, tổng hợp hình phạt, miễn hình phạt và xóa án tích đối với pháp nhân thương mại bị kết án. Các quy định này không chỉ bảo đảm sự thống nhất chung của hệ thống pháp luật mà còn nhằm thực thi các cam kết của Việt Nam trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên, bảo đảm công bằng giữa pháp nhân thương mại Việt Nam ở nước ngoài và pháp nhân thương mại nước ngoài tại Việt Nam[1].
1.2. Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Việc truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại là vấn đề mới được đặt ra, Việt Nam chưa có kinh nghiệm thực tiễn về chế định này, do vậy việc xác định các tội danh mà pháp nhân thương mại phải chịu TNHS cần thận trọng, có bước đi phù hợp, trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm và phổ biến của những hành vi vi phạm xảy ra trong thực tiễn để quy định trong BLHS nhằm xử lý hành vi phạm tội. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, trước mắt, xác định phạm vi các tội danh mà pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu TNHS chỉ thuộc các nhóm tội phạm kinh tế và tội phạm về môi trường. Trên tinh thần đó, Điều 76 của BLHS năm 2015 đã quy định 31 tội danh, trong đó, 22 tội thuộc Chương XVIII. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và 09 tội thuộc Chương XIX. Các tội phạm về môi trường, nếu phạm một trong các tội này, thì pháp nhân thương mại phải chịu TNHS.
Việc pháp nhân thương mại chịu TNHS không loại trừ TNHS của cá nhân (khoản 2 Điều 75. Điều kiện chịu TNHS của pháp nhân). Do vậy, trong quá trình áp dụng, giải quyết vụ án hình sự về tội có quy định TNHS của pháp nhân, trước hết, cần làm rõ các tình tiết, hành vi phạm tội và trách nhiệm của cá nhân hoặc pháp nhân (nếu có), trường hợp pháp nhân ra quyết định hoặc chỉ đạo cá nhân thực hiện hành vi phạm tội thì phải xử lý hình sự đồng thời cả cá nhân và pháp nhân về tội phạm mà họ đã thực hiện. Trường hợp phát hiện tội phạm xảy ra, mà ban đầu mới xác định được trách nhiệm của pháp nhân, thì khởi tố vụ án, khởi tố pháp nhân phạm tội, sau đó tiếp tục điều tra, làm rõ để xử lý hình sự cá nhân liên quan – người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, bảo đảm việc xử lý TNHS đối với cá nhân, pháp nhân được toàn diện, triệt để, tránh bỏ lọt tội phạm và cá nhân, pháp nhân phạm tội.
2. Sửa đổi các quy định xử lý người chưa thành niên (người dưới 18 tuổi) phạm tội
2.1. Sửa đổi, bổ sung phạm vi chịu TNHS của người chưa thành niên từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi
Theo quy định của BLHS năm 1999, người chưa thành niên (NCTN) từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong quá trình thảo luận, xây dựng dự thảo Bộ luật mới nhiều ý kiến cho rằng quy định phạm vi chịu TNHS đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi như hiện hành là quá rộng, chưa thực hiện đúng đường lối, chính sách xử lý hình sự đối với NCTN phạm tội. Mặt khác, nhiều tội phạm dù ít nghiêm trọng, nghiêm trọng nhưng có tính phổ biến, thường xuyên xảy ra do người ở lứa tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi thực hiện, như: cố ý gây thương tích hoặc tổn hại sức khỏe cho người khác, tổ chức đua xe trái phép, hiếp dâm, cưỡng dâm người dưới 16 tuổi, cướp tài sản... tạo nên tình trạng tội phạm học đường, gây nhiều nhức nhối và bất bình trong dư luận xã hội, ảnh hưởng xấu đến gia đình và nhà trường, lại không được quy định để xử lý hình sự, không đáp ứng yêu cầu răn đe, phòng ngừa, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự an toàn xã hội. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, tạo cơ sở phân hóa TNHS xử lý NCTN phạm tội, nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm NCTN; đồng thời bảo đảm minh bạch và thực hiện tốt nguyên tắc nhân đạo, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung theo hướng: quy định rõ các tội danh cụ thể thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà NCTN từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS, đồng thời bổ sung một số tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng nhưng có tính chất, mức độ nguy hiểm, xảy ra phổ biến mà mà NCTN từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi cũng phải chịu TNHS để xử lý nghiêm khắc (khoản 2 Điều 12)[2]. Những quy định này đều phù hợp với tinh thần của Hiến pháp 2013 và Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em.
2.2. Sửa đổi, bổ sung một số nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội
Điều 69 BLHS năm 1999 quy định về nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội, tuy nhiên còn chung chung, mang tính tùy nghi. BLHS năm 2015 đã sửa đổi theo hướng cụ thể hơn và khẳng định các nguyên tắc: Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của họ. Khi xét xử, Toà án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa. Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, ngoài việc tiếp tục quy định: “Toà án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng” của Bộ luật hiện hành, Bộ luật còn bổ sung “với thời hạn thích hợp ngắn nhất”… (các khoản 1, 4, 6 Điều 91). Các quy định này nhằm nội luật hóa và thể hiện tinh thần nhân đạo nêu tại Điều 37 của Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, việc bắt, giam giữ hay bỏ tù trẻ em chỉ được dùng đến như một biện pháp cuối cùng và trong thời hạn thích hợp ngắn nhất.
2.3. Đổi mới quy định về miễn TNHS đối với NCTN phạm tội
- Điều 69 BLHS năm 1999 quy định NCTN phạm tội có thể được miễn TNHS, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục (khoản 2). Để tạo điều kiện giảm tối đa việc xử lý TNHS đối với NCTN phạm tội, Bộ luật năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định này theo hướng cơ quan tiến hành tố tụng có thể xem xét, áp dụng việc miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội mà có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, trong các trường hợp cụ thể theo quy định của Bộ luật (khoản 2 Điều 91)[3].
- BLHS năm 1999 không quy định khi miễn TNHS đối với NCTN phạm tội, các cơ quan tố tụng phải áp dụng kèm theo các biện pháp giám sát, giáo dục họ; do vậy, để bảo đảm chặt chẽ hơn, BLHS năm 2015 đã sửa đổi chế định này theo hướng bổ sung mới quy định: khi quyết định miễn TNHS cho người dưới 18 tuổi, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục (quy định tại Mục C Chương XII) đối với họ, bao gồm: Khiển trách; Hòa giải tại cộng đồng; hoặc Giáo dục tại xã, phường, thị trấn (các điều từ 93 đến 95). Việc quyết định miễn TNHS và áp dụng các biện pháp này chỉ được thực hiện khi người phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý (Điều 92). Trong các biện pháp này, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là biện pháp tư pháp áp dụng đối với NCTN phạm tội trong BLHS năm 1999, nay BLHS năm 2015 đã chuyển hóa thành biện pháp giáo dục áp dụng trong trường hợp miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS năm 2015 chỉ còn lại biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng.
Đây là những điểm mới, tiến bộ được quy định trong Bộ luật với mục đích tăng khả năng áp dụng các quy định về miễn TNHS đối với NCTN phạm tội, hạn chế thấp nhất việc phải áp dụng hình phạt và các biện pháp tư pháp đối với NCTN phạm tội, bởi xuất phát từ đặc điểm của độ tuổi cũng như yêu cầu tăng cường trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc giám sát, giáo dục NCTN, việc áp dụng các biện pháp xử lý mang tính chất thay thế hình phạt và biện pháp tư pháp như: khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc giáo dục tại xã, phường, thị trấn là phù hợp với điều kiện tâm, sinh lý và yêu cầu giáo dục, phòng ngừa NCTN phạm tội. Việc quy định các biện pháp giám sát, giáo dục bắt buộc kèm theo sẽ bảo đảm việc xem xét, quyết định miễn TNHS và việc giáo dục, phòng ngừa xã hội được thực hiện đầy đủ, chặt chẽ, giúp NCTN phạm tội nhận thức được lỗi lầm, ăn năn hối cải và khắc phục sai phạm.
3. Bổ sung các trường hợp loại trừ TNHS; quy định cụ thể các trường hợp được miễn TNHS
- Nhằm góp phần thể hiện tinh thần đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tôn trọng và bảo đảm thực thi đầy đủ quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, BLHS năm 2015 đã phân định rõ những trường hợp không bị coi là tội phạm, không phải chịu TNHS khi bổ sung một chương riêng (Chương IV) với 07 điều quy định về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, trong đó, tiếp tục duy trì và cụ thể hóa 04 trường hợp như Bộ luật hiện hành (sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự), đồng thời, bổ sung thêm 03 trường hợp loại trừ TNHS là: Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội; Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh (các điều 24, 25 và 26). Việc bổ sung các trường hợp loại trừ TNHS nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn để người dân an tâm tự bảo vệ mình, tích cực tham gia phòng chống tội phạm; không làm cản trở việc cá nhân, công dân tham gia các hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học vì lợi ích chung.
- BLHS năm 2015 cũng đã cụ thể hóa các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo hướng: (i) phân biệt những trường hợp đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự và trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự; (ii) bổ sung một số trường hợp có thể được miễn TNHS nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc hiện nay (khoản 2 Điều 29).
4. Hạn chế hình phạt tử hình
4.1. Bỏ hình phạt tử hình ở một số tội danh
Cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại, việc dần loại bỏ hình phạt tử hình đã trở thành một xu thế chung, tiến bộ của thế giới, mà pháp luật quốc tế yêu cầu và phù hợp với tiến trình cải cách pháp ở nước ta hiện nay. Quá trình hoàn thiện chính sách hình sự và BLHS nước ta qua các thời kỳ đều có xu hướng giảm các quy định về hình phạt tử hình, nếu như BLHS năm 1985 (qua 04 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997) có 44 điều luật quy định hình phạt tử hình đối với các tội phạm cụ thể (chiếm 20,37%), thì đến BLHS năm 1999 giảm xuống còn 29 điều (chiếm 11%) và sau lần sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã giảm xuống còn 22 điều (chiếm 8%). Tuy vậy, thực tiễn thi hành BLHS cho thấy, mỗi năm số người bị kết án và thi hành án tử hình vẫn còn cao, làm mất đi cơ hội phục thiện, tái hòa nhập cộng đồng đối với những người này, đồng thời chưa thể hiện tốt tính nhân đạo của pháp luật hình sự XHCN. Nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về giảm hình phạt tử hình: hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”, góp phần bảo vệ quyền con người theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, trên cơ sở thảo luận và kết quả lấy ý kiến nhân dân, Quốc hội đã nhất trí thông qua việc tiếp tục loại bỏ hình phạt tử hình đối với 07 tội danh trong BLHS năm 2015, đó là: Tội cướp tài sản (Điều 168); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193); Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249), Tội chiếm đoạt trái phép chất ma túy (Điều 252); Tội phá huỷ công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303); Tội chống mệnh lệnh (Điều 394) và Tội đầu hàng địch (Điều 399). Việc loại bỏ hình phạt tử hình ở 07 tội danh này là cần thiết, thể hiện tính nhân văn của pháp luật hình sự XHCN, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và hội nhập quốc tế.
4.2. Không áp dụng hình phạt tử hình và không thi hành án tử hình đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên
Điều 35 của BLHS năm 1999 quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội; không áp dụng hình phạt tử hình và không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử. Thực tiễn thi hành những quy định này thời gian qua đã phát huy tính tích cực trong việc thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng BLHS năm 2015, qua thảo luận và lấy ý kiến Nhân dân, nhiều ý kiến đề nghị và tán thành với việc cần mở rộng chế định này theo hướng: bổ sung quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử và không thi hành án tử hình đối với những người này. Cũng có ý kiến cho rằng vẫn cần phải áp dụng hình phạt tử hình nếu đối tượng này phạm các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc cầm đầu tổ chức, băng nhóm tội phạm nguy hiểm, tội phạm ma túy; tuy nhiên, thực tiễn xử lý cho thấy, các trưởng hợp này là rất ít, mặt khác, việc tiếp tục cho áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội từ đủ 75 tuổi trở lên là không nhân đạo và làm giảm ý nghĩa giáo dục. Do vậy, để góp phần thể hiện sâu sắc tính nhân đạo và chính sách khoan hồng của pháp luật hình sự nước ta, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định mới: không áp dụng hình phạt tử hình đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử và không thi hành án tử hình đối với họ (các khoản 2, 3 Điều 40 về hình phạt tử hình).
4.3. Không thi hành án tử hình trong một số trường hợp khác
Ngoài việc bổ sung quy định không áp dụng hình phạt tử hình và không thi hành án tử hình đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên phạm tội, BLHS năm 2015 cũng bổ sung mới quy định: không thi hành án tử hình đối với người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ¾ tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn (điểm c khoản 3 Điều 40). Cơ sở của quy định này là: người phạm tội mang tính vụ lợi thì yếu tố khắc phục hậu quả, thu hồi lại tài sản chiếm đoạt cần được xem là một tình tiết đặc biệt khi thi hành án. Tuy nhiên, để bảo đảm sự công bằng, người phạm tội ngoài việc nộp lại tài sản tham ô, nhận hối lộ thì còn phải có đủ những điều kiện nhất định mang yếu tố tích cực như trên mới có thể được xem xét không thi hành án tử hình.
4.4. Quy định xét giảm án đối với người bị kết án tử hình được ân giảm xuống thành tù chung thân
BLHS năm 2015 đã bổ sung trường hợp giảm mức hình phạt đã tuyên: “Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm” (khoản 6 Điều 63) mà BLHS năm 1999 không quy định. Trong quá trình xây dựng dự án Bộ luật, cũng có ý kiến cho rằng không nên quy định cho tiếp tục xét giảm án đối với người bị kết án tử hình đã được ân giảm xuống thành tù chung thân để bảo đảm tính nghiêm trị của hình phạt. Tuy nhiên, nếu không tiếp tục xét giảm án sẽ phát sinh một loại hình phạt mới: tù chung thân không giảm án, tạo gánh nặng cho Nhà nước khi phải bảo đảm các điều kiện để thi hành án phạt tù suốt đời đối với những người này trong trại giam; mặt khác, sẽ làm cho người bị kết án nảy sinh tâm lý cực đoan, tiêu cực, chống phá trại giam, tự vẫn hoặc bỏ trốn, bởi họ không còn cơ hội, động cơ để cải tạo, phục thiện. Do đó, đa số ý kiến đều nhất trí quy định cho xét giảm án đối với các trường hợp này, nhưng cần có các điều kiện chặt chẽ, tránh lạm dụng. Tiếp thu các ý kiến, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định cho phép người bị kết án tử hình được ân giảm tiếp tục được xét giảm nhưng phải có điều kiện chặt chẽ hơn so với người bị kết án tù chung thân khác, đó là: thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần thì vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.
5. Bổ sung mới quy định về tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 66)
BLHS năm 2015 đã bổ sung mới quy định về Tha tù trước thời hạn có điều kiện (Điều 66) trong chế định về miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Quy định này nhằm tạo một cơ chế mới, hết sức đặc biệt được áp dụng đối với người đang chấp hành án phạt tù, mà thực chất là thay đổi biện pháp chấp hành hình phạt tù có điều kiện để người bị kết án được tiếp tục giáo dục, cải tạo ở môi trường xã hội bình thường dưới sự giám sát của chính quyền và cơ quan thi hành án hình sự. Đây là một giải pháp hợp lý theo tinh thần Chiến lược cải cách tư pháp, góp phần khắc phục những bất cập hiện nay trong việc áp dụng án treo, đặc xá. Tuy nhiên, để bảo đảm tính nghiêm minh và chặt chẽ, khoản 1 Điều 66 cũng quy định người đang chấp hành án phạt tù phải hội đủ nhiều yếu tố mới được xem xét áp dụng, trong đó, kết quả “đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, án phí và các nghĩa vụ bồi thường dân sự” là một trong các điều kiện bắt buộc; đồng thời, khoản 2 Điều 66 cũng quy định loại trừ những trường hợp không được áp dụng[4]. Ngoài ra, người được tha tù trước thời hạn có điều kiện mà cố ý vi phạm nghĩa vụ hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính từ 02 lần trở lên trong thời gian thử thách thì Tòa án có thể hủy bỏ quyết định tha tù và buộc họ phải chấp hành phần hình phạt tù còn lại (khoản 4 Điều 66). Việc quy định chặt chẽ các điều kiện được tha tù trước thời hạn đối với người đang chấp hành án phạt tù, ngoài kết quả chấp hành án, người được xét phải có đủ các yếu tố nhân thân khác là hết sức cần thiết, bảo đảm ý nghĩa, tác dụng của biện pháp này, phòng ngừa được nguy cơ tái phạm từ người bị kết án, đồng thời tránh lạm dụng, tùy tiện trong quá trình áp dụng biện pháp này.
Tuy nhiên, đây là biện pháp mới, khi áp dụng có thể sẽ phát sinh nhiều vấn đề phức tạp trong quản lý, giám sát số đối tượng phạm nhân được tha tù trước thời hạn, do đó, trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ công tác kiểm sát trong lĩnh vực này, cần hết sức chú ý, thận trọng, kiểm tra, đối chiếu từng trường hợp cụ thể để bảo đảm việc tha tù trước thời hạn có điều kiện phải chính xác, khách quan, đúng theo quy định của pháp luật; tránh để xảy ra những sai sót, tạo cơ hội cho những đối tượng nguy hiểm đang chấp hành án phạt tù được ra ngoài xã hội.
6. Thay thế Tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng bằng các tội danh cụ thể trong lĩnh vực quản lý kinh tế
Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng được quy định tại Điều 165 BLHS năm 1999. Qua thực tiễn thi hành, quy định này đã phát huy tính tích cực, hiệu quả trong đấu tranh, xử lý các tội phạm kinh tế. Tuy nhiên, trước yêu cầu cụ thể hóa Hiến pháp, bảo đảm minh bạch, an toàn của môi trường kinh doanh, để tránh áp dụng tùy tiện, thì việc thay thế tội danh này bằng các tội danh cụ thể trong từng lĩnh vực quản lý kinh tế là cần thiết. Tiếp thu ý kiến Nhân dân và ĐBQH, trên cơ sở tổng kết thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, đồng thời rà soát các luật chuyên ngành về các biểu hiện cụ thể, các dạng của hành vi cố ý làm trái, để bảo đảm khi áp dụng, xử lý các hành vi phạm tội được đầy đủ, không làm bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, BLHS năm 2015 đã thay thế tội danh nêu trên trong Chương XVIII. Các tội xâm phạm trật tự kinh tế theo hướng:
+ Bổ sung tình tiết “lợi dụng chức vụ quyền hạn” vào cấu thành các tội quy định tại 38 điều luật trong Chương;
+ Bổ sung quy định cụ thể 09 tội danh mới về vi phạm trong các lĩnh vực: quản lý cạnh tranh, đầu tư công; quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp; đấu thầu; đấu giá tài sản; kế toán; quản lý thuế; xây dựng; và bồi thường thu hồi đất, tại các điều: từ Điều 217 đến Điều 224, và Điều 230;
+ Quy định mới Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã tại Điều 234 trên cơ sở tách từ Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ quy định tại Chương các tội phạm về môi trường trong BLHS năm 1999.
7. Bổ sung mới và loại bỏ một số tội danh
7.1. Bổ sung mới một số tội danh
Ngoài việc bổ sung những tội danh thay thế Điều 165 về Tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng, BLHS năm 2015 đã bổ sung 34 tội danh mới để quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội, xảy ra phổ biến, nhằm tạo cơ sở pháp lý đấu tranh, xử lý tội phạm trong tình hình mới. Việc bổ sung là tương đối bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm thực hiện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân, nhất là quyền về an sinh xã hội, quyền sống trong môi trường an toàn, lành mạnh và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Trong quá trình xây dựng, dự thảo Bộ luật đã đưa ra yêu cầu tội phạm hóa nhiều loại hành vi vi phạm trong các lĩnh vực khác nhau, qua thảo luận, tiếp thu ý kiến Nhân dân và đại biểu Quốc hội, BLHS năm 2015 đã quy định các tội danh mới, bổ sung các hành vi phạm tội tại nhiều điều luật để xử lý hình sự đối với người phạm tội[5]. Việc bổ sung này là phù hợp với thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm an ninh trật tự, xử lý các tội phạm mới phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
7.2. Loại bỏ một số tội danh
Qua tổng kết thực tiễn thi hành và rà soát các quy định của BLHS, để phù hợp với thực tiễn tình hình kinh tế - xã hội, thực hiện tốt chính sách hình sự, bảo đảm thống nhất trong hệ thống pháp luật, BLHS năm 2015 đã loại bỏ 08 tội danh mà BLHS năm 1999 quy định, đó là: Tội hoạt động phỉ; Tội tảo hôn; Tội đăng ký kết hôn trái pháp luật; Tội kinh doanh trái phép; Tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế; Tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp; Tội sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; và Tội không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng.
Trong quá trình xây dựng Bộ luật, cũng có ý kiến đề nghị không bỏ Tội hoạt động phỉ; tuy nhiên, qua kết quả lấy ý kiến nhân dân và thảo luận, đa số đại biểu Quốc hội tán thành phương án bỏ các tội nêu trên và cho rằng việc bỏ những tội này được cân nhắc trên cơ sở rà soát quy định giữa các điều trong BLHS, rà soát các luật chuyên ngành nhằm bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật và phù hợp với tình hình thực tiễn; cụ thể: đối với Tội hoạt động phỉ, các hành vi về mặt khách quan như: giết người, cướp phá… nếu nhằm mục đích chống chính quyền nhân dân thì đã được xử lý trong các tội danh thuộc chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia, nếu không thì xử lý về các tội danh tương ứng ở các chương khác, nên không cần thiết phải duy trì tội danh này. Tội tảo hôn, thực tiễn hiện nay cho thấy, người phạm tội chủ yếu do nhận thức lạc hậu, nên chỉ cần xử lý về hành chính, việc xử lý hình sự chỉ nên áp dụng đối với người tổ chức tảo hôn, do vậy cần loại bỏ tội danh này, chỉ quy định Tội tổ chức tảo hôn (Điều 183 BLHS năm 2015). Hành vi phạm tội đăng ký kết hôn trái pháp luật đã được thu hút, xử lý trong Tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật mới được bổ sung (Điều 336 BLHS năm 2015), không cần thiết quy định riêng tội danh về đăng ký kết hôn trái pháp luật. Về các tội: kinh doanh trái phép; báo cáo sai trong quản lý kinh tế; vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ sở hữu công nghiệp; sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, trên thực tế không còn phù hợp với tinh thần Hiến pháp 2013 và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng như quy định của các luật chuyên ngành như: Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật sở hữu trí tuệ; Luật các tổ chức tín dụng,… Đối với Tội không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng thì việc bỏ tội này nhằm bảo đảm thống nhất với Luật xử lý vi phạm hành chính. Trên cơ sở đó, 08 tội danh nêu trên đã được loại bỏ, không còn quy định trong BLHS năm 2015.
8. Cụ thể hóa các tình tiết định tính, định lượng trong điều luật và thu hẹp hợp lý các khung hình phạt
Thực tiễn thi hành BLHS 1999 cho thấy nhiều quy định có nội dung chưa rõ ràng, chưa hợp lý hoặc chưa giải quyết được các vấn đề phát sinh trong thực tiễn, nhất là dấu hiệu cấu thành một số tội phạm chưa rõ ràng, thiếu tính minh bạch; số lượng các khung khoản có quy định các tình tiết mang tính chất định tính cũng như quy định khoảng cách khung hình phạt quá lớn vẫn còn nhiều, chưa được khắc phục một cách cơ bản là vướng mắc chủ yếu trong thực tiễn hiện nay.
- Cụ thể, BLHS năm 1999 có 282 điều luật quy định các tình tiết định tính, định lượng như: “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”; “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”; “thu lợi bất chính lớn”, “thu lợi bất chính rất lớn”, “thu lợi bất chính đặc biệt lớn”; “đất có diện tích lớn”, “đất có diện tích rất lớn”, “đất có diện tích đặc biệt lớn”; “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị đặc biệt lớn”; “quy mô lớn”... là các tình tiết định tội, định khung tăng nặng hình phạt. Thực tiễn áp dụng các tình tiết này đã nảy sinh nhiều khó khăn, vướng mắc, các cơ quan tố tụng và cơ quan hữu quan đã phải ban hành nhiều văn bản hướng dẫn chi tiết, trong đó nhiều trường hợp phải tiến hành giám định, định giá và chờ kết quả mới có cơ sở định tội, định khung hình phạt, gây ảnh hưởng và làm hạn chế không nhỏ đến hiệu quả của công tác đấu tranh, xử lý tội phạm. Để giải quyết những bất cập này, đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 (Mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải do luật định) và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (Thông tư liên tịch chỉ hướng dẫn quan hệ phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện trình tự, thủ tục), bảo đảm minh bạch và áp dụng thống nhất, việc luật hóa các quy định hướng dẫn hiện hành nhằm cụ thể các tình tiết định tính, định lượng trong BLHS là hết sức cần thiết. BLHS năm 2015 đã có bước đổi mới về kỹ thuật lập pháp khi cụ thể hóa hầu hết các tình tiết định tính, định lượng theo hướng: lượng hóa số hàng hóa, vật hoặc chất phạm pháp; quy định rõ số lượng, giá trị vật chất (tiền, tài sản) bị chiếm đoạt hoặc thiệt hại; xác định cụ thể những thiệt hại về tính mạng và sức khỏe của con người (tỷ lệ tổn thương cơ thể, tổn thương về tâm thần); đồng thời, thể hiện rõ hơn những ảnh hưởng xấu, tổn hại về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội,... trong khung, khoản của các điều luật. Hiện trong BLHS năm 2015 chỉ còn giữ lại một số các tính tiết định tính, định lượng cần thiết phải quy định ở Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia và Chương các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân… để xử lý các trường hợp phạm tội mang tính đặc thù của các nhóm tội phạm này.
- Để giải quyết, khắc phục nhược điểm về sự chênh lệch lớn giữa mức hình phạt tối thiểu và mức hình phạt tối đa trong cùng một khung tồn tại ở nhiều điều luật, nhất là có tới 42 tội danh mà mức phạt tù trong cùng một khung hình phạt có mức chênh lệch 8 đến 10 năm, BLHS năm 2015 đã thu hẹp tối thiểu sự chênh lệch giữa mức thấp nhất và mức cao nhất của các khung hình phạt tù trong các điều luật, giữ khoảng cách tương đối hợp lý, bảo đảm tránh việc tùy tiện và thiếu thống nhất trong áp dụng.
Việc sửa đổi, bổ sung này nhằm góp phần bảo đảm BLHS trở thành công cụ sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, áp dụng xử lý chính xác tội phạm; bảo vệ tốt an ninh, trật tự an toàn công cộng, các quyền con người, quyền công dân và thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước trong bối cảnh hiện nay.
9. Những nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể khác
Ngoài những vấn đề trọng tâm nêu trên, BLHS năm 2015 còn có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng, đó là:
Những nội dung sửa đổi, bổ sung thể hiện tinh thần đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội
- Sửa đổi, bổ sung quy định về chuẩn bị phạm tội (Điều 14) theo hướng bổ sung thêm hành vi thành lập, tham gia nhóm tội phạm để thực hiện tội phạm, tạo cơ sở pháp lý để chủ động ngăn chặn sớm tội phạm xảy ra, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm. Quy định như vậy là phù hợp với tinh thần của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia mà nước ta là thành viên và nhằm nội luật hóa nội dung Công ước này. Đồng thời quy định rõ 20 tội danh mà người chuẩn bị phạm tội bị xử lý hình sự và cụ thể 04 tội danh mà người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có hành vi chuẩn bị phạm tội bị xử lý hình sự.
- Sửa đổi, bổ sung quy định về che giấu tội phạm theo hướng người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác được BLHS quy định (khoản 2 Điều 18).
- Sửa đổi, bổ sung quy định về điều kiện áp dụng hình phạt theo hướng hạn chế, không áp dụng hình phạt tù đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và có nơi cư trú rõ ràng (khoản 2 Điều 38); mở rộng phạm vi áp dụng phạt tiền là hình phạt chính (Điều 35) đối với người phạm tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường thì phạt tiền là hình phạt chính có thể áp dụng đối với cả tội rất nghiêm trọng. Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ (Điều 36), bổ sung quy định không khấu trừ thu nhập đối với người chấp hành án là người đang thực hiện nghĩa vụ quân sự; trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ; không áp dụng biện pháp lao động phục vụ cộng đồng đối với phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 06 tháng tuổi, người già yếu, người bị bệnh hiểm nghèo, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.
- Quy định chặt chẽ các điều kiện áp dụng hình phạt tử hình nhằm thu hẹp phạm vi chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do BLHS quy định (Điều 40)
- Sửa đổi, bổ sung quy định về xóa án tích nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bị kết án sớm ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng, theo hướng: 1) người được miễn hình phạt và người bị kết án do lỗi vô ý về một tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng thì không bị coi là có án tích (Điều 69); 2) rút ngắn thời hạn đương nhiên xóa án tích so với quy định hiện hành, và bổ sung quy định Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu người bị kết án đủ điều kiện (Điều 70).
Những nội dung sửa đổi, bổ sung nhằm bảo đảm thực thi đầy đủ quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013; góp phần bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
- Sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, theo hướng: thay đổi tên chương thành Các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân (Chương XV); bổ sung, quy định là tội phạm đối với các hành vi “xâm phạm”, “cản trở” hoặc “ép buộc” trái pháp luật cá nhân, công dân trong việc thực hiện các quyền của mình; bổ sung làm rõ các tình tiết định tội, định khung và quy định tăng nặng hình phạt đối với hầu hết các tội thuộc nhóm này. Sửa đổi Tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ thành Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới và quy định rõ hơn các dấu hiệu của tội phạm, bảo đảm thi hành quy định của pháp luật về bình đẳng giới (Điều 165).
- Sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Chương XVIII) và nhóm các tội phạm về môi trường (Chương XIX) nhằm phi tội phạm hóa một số tội danh[6], cụ thể hóa các hành vi, trường hợp phạm tội, bổ sung các hành vi, các tội danh mới liên quan; tăng hình phạt tiền với tính cách là hình phạt chính và nâng mức phạt tiền phù hợp thực tiễn đối với các tội này; quy định xử phạt cụ thể đối với trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội thuộc 02 nhóm này;... giúp cơ quan tiến hành tố tụng xử lý triệt để, chính xác tội phạm, bảo đảm sự bình đẳng, lành mạnh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại, góp phần bảo đảm cho kinh tế thị trường phát triển ổn định, bảo vệ phát triển bền vững môi trường.
Những nội dung sửa đổi, bổ sung thể hiện tinh thần đổi mới quan niệm về tội phạm và hình phạt, về cơ sở của trách nhiệm hình sự, đồng thời khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm
- Sửa đổi, bổ sung các nhóm tội phạm cụ thể: bổ sung, quy định rõ các tình tiết, hành vi cấu thành tội phạm; thiết kế lại hợp lý các khung hình phạt; bổ sung các trường hợp phạm tội và các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ hình phạt ở các điều luật.
- Sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm sở hữu (Chương XVI) theo hướng: bảo đảm đối xử bình đẳng giữa chính sách xử lý hành vi xâm phạm tải sản của Nhà nước với hành vi xâm phạm tài sản của cá nhân theo tinh thần của Hiến pháp 2013; quy định phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với một số tội xâm phạm sở hữu, tăng mức phạt tiền áp dụng là hình phạt bổ sung đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu. Cụ thể hóa hành vi phạm tội, phân định rõ hơn các trường hợp phạm tội, bổ sung tình tiết định khung tăng nặng; bổ sung trường hợp xử lý hình sự về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đối với hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng, đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả (Điều 175).
- Sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm an toàn công công, trật tự công cộng (Chương XXI) theo hướng: Quy định phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng thuộc các tội: cản trở giao thông đường bộ; tổ chức đua xe trái phép; đua xe trái phép (các điều 261, 265, 266)...; cụ thể hóa hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng định khung.
- Sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (chương XXIV) theo hướng: sửa đổi khái niệm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là những hành vi xâm phạm sự đúng đắn của hoạt động tố tụng và thi hành án nhằm bảo đảm xử lý mọi đối tượng có hành vi xâm phạm hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án theo quy định của pháp luật tố tụng và thi hành án. Cụ thể hóa, bổ sung các tình tiết định tội hoặc tăng nặng định khung, nâng mức hình phạt ở một số khung tăng nặng trong hầu hết các tội danh, thu hẹp hợp lý khoảng cách các khung hình phạt trong một số điều luật cụ thể. Sửa đổi, bổ sung tội dùng nhục hình (Điều 373) và tội bức cung (Điều 374) trên tinh thần cập nhật nội dung Công ước chống tra tấn mà nước ta là thành viên; sửa đổi, bổ sung Tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc (Điều 375) theo hướng mở rộng chủ thể tội này, ngoài Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự thì những người khác có nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động tư pháp cũng có thể trở thành chủ thể của tội này vì họ có cơ hội tiếp xúc với hồ sơ vụ án, vụ việc; bổ sung mới Tội gây rối trật tự tại phiên tòa để bảo đảm trật tự, tôn trọng tính uy nghiêm của phiên tòa xét xử (Điều 391).
Sửa đổi, bổ sung nội luật hóa các qui định có liên quan của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Để nội luật hóa các qui định có liên quan của điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên, đáp ứng yêu cầu hội nhập, tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, đồng thời, bảo đảm xử lý tội phạm trong thực tiễn, Bộ luật đã sửa đổi, bổ sung Chương XXIII. Các tội phạm về chức vụ theo hướng: mở rộng khái niệm tội phạm về chức vụ bao gồm cả trong khi thi hành công vụ và nhiệm vụ (Điều 352), để bảo đảm xử lý tội phạm về chức vụ xảy ra trong khu vực tư (ngoài Nhà nước). Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà có hành vi tham ô tài sản, nhận hối lộ (các điều 353, 354); Người nào đưa hoặc sẽ đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước (Điều 364); Người nào môi giới hối lộ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước (Điều 365)… cũng sẽ bị xử lý theo các tội danh tương ứng quy định tại Chương này; đặc biệt, bổ sung quy định mới về của đưa, nhận, môi giới hối lội bao gồm cả những lợi ích phi vật chất tại các điều luật nêu trên. Các quy định mới này nhằm góp phần thực thi Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng, tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta. Liên quan các tội tham ô, nhận hối lộ, nếu thuộc trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng (các khoản 3, 4 của các điều 364, 365) sẽ không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 28).
Ngoài ra, sửa đổi, bổ sung các tội phạm thuộc các nhóm khác như: tội mua bán người, tội mua bán người dưới 16 tuổi (Điều 150 và Điều 151) trên tinh thần Nghị định thư về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em mà nước ta là thành viên; bổ sung mới Tội bắt cóc con tin (Điều 301) và Tội cướp biển (Điều 302) trên tinh thần các quy định của Công ước chống bắt cóc con tin năm 1979 và Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982 mà nước ta là thành viên; sửa đổi, bổ sung Tội rửa tiền (Điều 324) nhằm đáp ứng đầy đủ yêu cầu của các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) về phòng, chống rửa tiền mà nước ta phải tuân thủ với tư cách là thành viên APG…
Hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự
Ngoài những nội dung sửa đổi, bổ sung căn bản nêu trên, BLHS năm 2015 đã hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự theo hướng nâng cao tính minh bạch, khả thi và tính dự báo trong các quy định của BLHS; bảo đảm tính thống nhất về mặt kỹ thuật giữa Phần chung và Phần các tội phạm cụ thể của BLHS và giữa BLHS với các luật khác. Tách các tội ghép trong BLHS năm 1999 thành các tội danh độc lập, bảo đảm chính sách xử lý phù hợp hơn; giảm số lượng các điều luật có quy định tình tiết định tội là "đã bị xử lý hành chính mà còn vi phạm"; điều chỉnh, cập nhật các từ ngữ trong các điều khoản quy định về các tội phạm trong lĩnh vực chuyên ngành như trật tự quản lý kinh tế, môi trường, công nghệ thông tin, an toàn giao thông,… bảo đảm thống nhất, chính xác về thuật ngữ, thuận tiện cho thực tiễn áp dụng.
III. NỘI DUNG NGHỊ QUYẾT THI HÀNH BỘ LUẬT
Theo tinh thần của Nghị quyết số 109/2015/QH13 về việc thi hành BLHS năm 2015, việc áp dụng Bộ luật được thực hiện như sau:
1. Kể từ ngày 01/07/2016, thời điểm Bộ luật có hiệu lực:
a) Tất cả các điều khoản của BLHS năm 2015 được áp dụng để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đối với người thực hiện hành vi phạm tội từ 0 giờ 00 ngày 01/7/2016;
b) Các điều khoản của BLHS năm 2015 xóa bỏ một tội phạm, xóa bỏ một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích;
c) Tội phạm mới quy định tại các điều 147, 154, 167, 187, 212, 213, 214, 215, 216, 217, 218, 219, 220, 221, 222, 223, 224, 230, 234, 238, 285, 291, 292, 293, 294, 297, 301, 302, 336, 348, 388, 391, 393 và 418 của BLHS năm 2015; các điều luật bổ sung hành vi phạm tội mới, các điều luật quy định một hình phạt mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới; hạn chế phạm vi miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác không có lợi cho người phạm tội, thì không áp dụng đối với những hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 mà sau thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc đối với người đang được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, xóa án tích; trong trường hợp này, vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 để giải quyết;
d) Quy định tại điểm b và điểm c khoản này cũng được áp dụng đối với các điều luật mới quy định tội được tách ra từ các tội ghép trong BLHS năm 1999;
đ) Các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”; “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”; “thu lợi bất chính lớn”, “thu lợi bất chính rất lớn”, “thu lợi bất chính đặc biệt lớn”; “đất có diện tích lớn”, “đất có diện tích rất lớn”, “đất có diện tích đặc biệt lớn”; “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị đặc biệt lớn”; “quy mô lớn” đã được áp dụng để khởi tố bị can trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 thì vẫn áp dụng quy định của BLHS năm 1999 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử;
e) Đối với hành vi hoạt động phỉ quy định tại Điều 83, hành vi đăng ký kết hôn trái pháp luật quy định tại Điều 149, hành vi kinh doanh trái phép quy định tại Điều 159, hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 165 của BLHS năm 1999 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 mà sau thời điểm đó vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì tiếp tục áp dụng quy định của BLHS năm 1999 để xử lý; trường hợp vụ án đã được xét xử và đã có bản án, quyết định của Tòa án, thì không được căn cứ vào việc BLHS năm 2015 không quy định tội danh hoạt động phỉ, tội danh đăng ký kết hôn trái pháp luật, tội danh kinh doanh trái phép, tội danh cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng để kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành án về tội hoạt động phỉ, tội đăng ký kết hôn trái pháp luật, tội kinh doanh trái phép, tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã chấp hành xong bản án thì vẫn áp dụng quy định tương ứng của các văn bản quy phạm pháp luật hình sự có hiệu lực trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 để giải quyết; nếu sau thời điểm 0 giờ 00 ngày 01/7/2016 mới bị phát hiện thì không khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội hoạt động phỉ quy định tại Điều 83, tội đăng ký kết hôn trái pháp luật quy định tại Điều 149, tội kinh doanh trái phép quy định tại Điều 159, tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 165 của BLHS năm 1999 mà áp dụng quy định của BLHS năm 2015 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo tội danh tương ứng;
g) Đối với những hành vi phạm tội đã có bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016, thì không được căn cứ vào những quy định của BLHS năm 2015 có nội dung khác so với các điều luật đã được áp dụng khi tuyên án để kháng nghị giám đốc thẩm; trong trường hợp kháng nghị dựa vào căn cứ khác hoặc đã kháng nghị trước ngày 01/7/2016, thì việc xét xử giám đốc thẩm phải tuân theo quy định tại điểm b và điểm c khoản này;
i) Các quy định về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245 và 246 của BLHS năm 2015 không áp dụng đối với những hành vi vi phạm của pháp nhân thương mại xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01/7/2016.
2. Kể từ ngày 18/12/2015, Bộ luật được công bố:
a) Không áp dụng hình phạt tử hình khi xét xử người phạm tội mà BLHS năm 2015 đã bỏ hình phạt tử hình, đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử;
b) Hình phạt tử hình đã tuyên đối với người được nêu tại điểm a khoản này nhưng chưa thi hành án, thì không thi hành và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân;
c) Đối với người đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành án mà có đủ các điều kiện quy định tại điểm c khoản 3 Điều 40 của BLHS năm 2015, thì không thi hành và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chuyển hình phạt tử hình thành hình phạt tù chung thân;
d) Không xử lý về hình sự đối với người thực hiện hành vi mà BLHS năm 1999 quy định là tội phạm nhưng BLHS năm 2015 không quy định là tội phạm, bao gồm: tảo hôn; báo cáo sai trong quản lý kinh tế; vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính. Nếu vụ án đã được khởi tố, đang điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
đ) Không xử lý về hình sự đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm không được quy định tại khoản 2 Điều 12 và các điểm b, c khoản 2 Điều 14 của BLHS năm 2015; nếu vụ án đã được khởi tố, đang điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt;
e) Những người đã chấp hành xong hình phạt hoặc được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc phần hình phạt còn lại theo quy định tại điểm d và điểm đ khoản này, thì đương nhiên được xóa án tích.
3. Nhiệm vụ triển khai thi hành Bộ luật:
Về trách nhiệm tổ chức thực hiện và thi hành, nội dung Nghị quyết đã giao:
3.1. Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp tổ chức việc rà soát các văn bản có liên quan để kịp thời hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới hoặc đề nghị Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới cho phù hợp với quy định của Bộ luật này, bảo đảm hiệu lực của Bộ luật từ ngày 01/7/2016.
3.2. Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận tuyên truyền, phổ biến rộng rãi Bộ luật trong nhân dân, cán bộ, công chức, viên chức và Nhân dân nhằm góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy tác dụng của BLHS năm 2015 trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
3.3. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết này.
Trên đây là những điểm mới, sửa đổi bổ sung cơ bản của BLHS năm 2015 và nội dung Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật./.
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
[1] Theo thống kê của Chính phủ, có 116 quốc gia trong đó có 6 nước ASEAN có quy định về TNHS pháp nhân. Các công ước có liên quan đến xử lý pháp nhân gồm: Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; Công ước ASEAN về chống khủng bố và các Công ước về chống khủng bố khác mà Việt Nam đã tham gia. Luật phòng, chống khủng bố, Luật phòng, chống rửa tiền cũng đã quy định hành vi khủng bố, hành vi rửa tiền của cá nhân và pháp nhân.
[2] Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây:
a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi);
b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);
c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);
d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);
đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);
e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự).
[3] a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;
c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.
[4] Người bị kết án về tội xâm phạm an ninh quốc gia; tội khủng bố; tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh hoặc người bị kết án từ 10 năm tù trở lên đối với tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của con người; 07 năm tù trở lên đối với các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và sản xuất trái phép, mua bán trái phép, chiếm đoạt chất ma túy; người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 40 của BLHS.
[5] Như: sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154); đăng ký hộ tịch trái pháp luật (Điều 336); tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại (Điều 187); sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật (Điều 285); truy cập trái phép tài khoản, thẻ ngân hàng hoặc sử dụng trái phép thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi chiếm đoạn tài sản; làm, tàng trữ, mua bán, sử dụng, lưu hành thẻ ngân hàng giả để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; lừa đảo kinh doanh đa cấp qua mạng; thiết lập cung cấp trái phép dịch vụ viễn thông, internet nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 290); sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh (Điều 293); cố ý gây nhiễu có hại, cản trở hoạt động bình thường của hệ thống thông tin vô tuyến điện gây thiệt hại (Điều 294); cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 292); thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa thông tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291); gây rối trật tự phiên tòa (Điều 391); ra mệnh lệnh trái pháp luật (Điều 393);...
[6] Kinh doanh trái phép (Điều 159) và Báo cáo sai trong quản lý kinh tế (Điều 167) của BLHS năm 1999
Đang truy cập :
93
Tổng lượt truy cập :
1534207