Việc xác định tiền án đã được xóa án tích hay chưa của bị can, bị cáo có ý nghĩa hết sức quan trọng, là căn cứ quyết định hình phạt. Trong nhiều tội danh, việc xác định tiền án đã được xóa án tích chưa còn có ý nghĩa trong việc định tội, định khung. Tuy nhiên, thực tiễn vấn đề xác định tiền án của người phạm tội vẫn còn vướng mắc. Tác giả xin được nêu một trường hợp cụ thể như sau:
Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 20/12/2021, tại khu vực trước cửa số nhà 57 ngõ 189 đường H, phường G, quận B, thành phố N, L đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,116 gam heroin, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Tổ công tác Công an phường G bắt quả tang cùng vật chứng.
Về nhân thân xác định L có các tiền án như sau:
- Bản án số 249 ngày 27/09/1994, TAND quận B xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Đánh bạc”. Xác minh tại Chi cục Thi hành án dân sự không có bản án nên không có căn cứ trả lời.
- Bản án số 137 ngày 16/12/1999 (ngày phạm tội: 31/07/1999), TAND quận T xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bản án số 50 ngày 31/01/2000, TAND TP N xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đã đóng án phí ngày 16/12/1999.
- Bản án số 515 ngày 31/07/2001 (ngày phạm tội: 07/03/2001), TAND TP N xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, 02 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt với bản án số 50 ngày 31/01/2000 là 11 năm tù. Phạt bị cáo 5.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước, 50.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Ra trại ngày 02/09/2009. Xác minh tại Cơ quan thi hành án dân sự: Chưa nộp phạt số tiền 3.550.000 đồng.
Quá trình giải quyết vụ án này hiện còn có các quan điểm khác nhau về việc xác định có áp dụng tình tiết định khung tăng nặng để chuyển khung hình phạt đối với L hay không.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Khoản 2 Điều 73 BLHS quy định: “Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành.”. Như vậy, theo quy định này thì thời hạn để được xóa bản án sơ thẩm số 137 ngày 16/12/1999 của TAND quận T (bản án phúc thẩm số 50 ngày 31/01/2000 của TAND TP N) được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính của bản án số 515 ngày 31/07/2001 của TAND TP N. Cụ thể là, L đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/9/2009 nên được xóa án tích cũ (bản án sơ thẩm số 137 ngày 16/12/1999 của TAND quận T) vào ngày 02/9/2010.
Đối với Bản án số 515 ngày 31/07/2001 của TAND TP Hà Nội, bị cáo chưa nộp phạt số tiền 3.550.000 đồng, xác định chưa xóa án tích. Như vậy, lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm theo khoản 1 Điều 53 BLHS. Do vậy L sẽ bị truy tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Trước khi thực hiện hành vi phạm tội lần này thì ngày 07/03/2001, bị cáo L đã thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã bị Tòa án nhân dân thành phố N xét xử vào ngày 31/07/2001 và xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm (Bản án số 515/2001/HS-ST). Bản án số 515 ngày 31/07/2001, Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, 02 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” (phạm tội ngày 07/03/2001). Tổng hợp hình phạt với bản án số 50 ngày 31/01/2000 của TAND TP N là 11 năm tù. Phạt bị cáo 5.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước, 50.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo ra trại ngày 02/09/2009. Xác minh tại Cơ quan thi hành án dân sự: Bị cáo chưa nộp phạt số tiền 3.550.000 đồng. Ngày 20/12/2021, bị cáo lại tiếp tục phạm tội, căn cứ theo quy định của Điều 70 Bộ luật hình sự, bị cáo chưa được xóa án tích. Vì vậy, hành vi phạm tội lần này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật hình sự. Do vậy L sẽ bị truy tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm o khoản 2 Điều 249 BLHS.
Qua các quan điểm trên, tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất là L đã được xóa án tích đối với Bản án sơ thẩm số 137 ngày 16/12/1999 của TAND quận T, và lần phạm tội này L sẽ bị truy tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS với tình tiết tăng nặng là tái phạm vì các lý do sau đây:
- Theo tinh thần của Điều 7 Bộ luật hình sự 2015 sẽ áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội. Đối với việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất, đồng bộ như trên, việc nhận định L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS với tình tiết tăng nặng là tái phạm sẽ có lợi cho L khi lượng hình.
- Việc nhận định như quan điểm thứ 2 sẽ dẫn tới việc không cần thu thập các bản án trước đó cũng như xác minh hình phạt, trách nhiệm của người phạm tội được tuyên trong bản án, mà chỉ cần thu thập bản án cuối cùng của người phạm tội để nhận định về nhân thân. Điều này có thể dẫn tới thiếu sót trong việc xác minh việc chấp hành án phạt tù, chấp hành án phí, bồi thường thiệt hại…của những bản án trước đó, gây ảnh hưởng đến việc tổng hợp hình phạt hoặc xác định khung hình phạt của người phạm tội.
Do nhận thức pháp luật còn khác nhau, việc áp dụng pháp luật chưa thống nhất, đồng bộ. Do vậy thiết nghĩ cần có hướng dẫn cụ thể về nguyên tắc có lợi cho người phạm tội. Theo đó, trong BLTTHS và BLHS quy định rõ về nguyên tắc có lợi cho người phạm tội; nội dụng cụ thể có thể theo hướng, trong quá trình giải quyết vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải áp dụng những quy định có lợi cho người phạm tội được thể hiện trong luật, trường hợp trong luật chưa quy định cụ thể thì xem xét, cân nhắc chứng cứ để đánh giá, nếu chứng cứ chứng minh tính có lợi bằng hoặc nhiều hơn thì vận dụng quy định có lợi cho người bị buộc tội. Ngoài ra cũng cần có những văn bản hướng dẫn nghiệp vụ để hướng dẫn về việc tính tái phạm, tái phạm nguy hiểm đối với những trường hợp có tranh chấp quan điểm như trên. Từ đó dẫn tới việc áp dụng pháp luật đồng bộ, hạn chế được việc Tòa án trả điều tra bổ sung.
Mong nhận được nhiều ý kiến tranh luận của đồng nghiệp và bạn đọc.
Ngô Thị Thu Thủy – VKSND quận Ba Đình
Đang truy cập :
33
Tổng lượt truy cập :
1106119