Rút kinh nghiệm một số vụ án dân sự bị cấp phúc thẩm sửa, hủy

01/08/2024 16:57 | 242 | 0

        Thực hiện Chỉ thị số 05/CT-VKSTC ngày 18/10/2022 của Viện trưởng Viện KSND tối cao về việc thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự và những việc khác theo quy định của pháp luật, Kế hoạch số 72/KH-VKS ngày 14/11/2022 của Viện KSND thành phố Hà Nội về triển khai thực hiện Chỉ thị số 05/CT-VKSTC, thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân gia đình theo thủ tục phúc thẩm, Viện KSND thành phố Hà Nội thông báo rút kinh nghiệm một số vụ án dân sự bị cấp phúc thẩm hủy, cụ thể như sau:

        1. Vụ án “Tranh chấp chia thừa kế” bị cấp phúc thẩm hủy án do xác định thời hiệu thừa kế không đúng quy định pháp luật

        * Nội dung vụ án:

        - Về huyết thống, cụ N.T.S (chết ngày 10/5/1990) và cụ N.T.U, chết ngày 26/10/2002. Cụ S và cụ U sinh được 05 người con gồm: Bà N.T.S; bà N.T.H; bà N.T.M; bà N.T.H; ông N.T.M (chết 2018). Ông M có vợ là bà N.T.T và có 04 người con gồm: Chị N.T.T; anh N.T.Q có vợ là chị N.T.L.Đ và hai con là N.T.K và cháu N.T.K; chị N.T.T; anh N.T.Q (chết 2011) có vợ đã đi lấy chồng khác và không có con.

        Ngoài 05 người con có tên nêu trên, cụ S và cụ U không có con đẻ, không có con nuôi nào khác. Cụ S và cụ U chết không để lại di chúc.

        - Về di sản: Các đương sự đều thống nhất về di sản do hai cụ để lại là: thửa đất số 312, diện tích 480,4m2 (theo bản đồ năm 2002), diện tích đo thực tế là 545,2m2, trong đó: 343m2 đất ở và 202,2m2 đất ao tại thôn T, xã L, huyện Đ, Thành phố H.                                                                                                             

        - Nguyên đơn - bà N.T.S trình bày:

        Thửa đất 312 tại thôn T, xã L, huyện Đ, Thành phố H trước đây có ngôi nhà 04 gian cấp 4 do cụ S và cụ U làm và một ngôi nhà 3 gian mái bằng. Hiện nay các ngôi nhà trên đã bị phá dỡ để anh Quý xây ngôi nhà 3 tầng trên đất. Nay bà đề nghị Tòa án chia thừa kế theo pháp luật đối với thửa đất 312, diện tích 480,4m2 (theo bản đồ năm 2022), diện tích đo thực tế là 545,2m2 tại thôn T, xã L, huyện Đ, Thành phố H. Bà xin được hưởng bằng hiện vật.

        - Bị đơn - bà N.T.T, anh N.T.Q thống nhất trình bày:

        Bà T kết hôn với ông M năm 1975, ông bà sống cùng cụ S và cụ U trên nhà đất của hai cụ tại thửa đất 312 tại thôn T, xã L, huyện Đ, Thành phố H. Khi bà về chung sống cùng ông M, trên đất đã có 4 gian nhà cấp 4 lợp ngói và 3 gian nhà cấp 4 xây gạch. Năm 2017 gia đình bà T đã phá bỏ nhà cũ để xây ngôi nhà 03 tầng như hiện nay. Hiện thửa đất 312 vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

        Nay bà S yêu cầu chia thừa kế thửa đất 312 thì bà T, anh Q yêu cầu được hưởng thừa kế của ông M và công sức phát triển tài sản bằng hiện vật tại phần đất có ngôi nhà 3 tầng giáp đường ngõ đi.

        * Quá trình giải quyết: Bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện Đ, quyết định:

        1. Đình chỉ yêu cầu của bà N.T.S về việc chia di sản thừa kế của cụ N.T.S.

        2. Chấp nhận yêu cầu của bà N.T.S về việc chia tài sản thừa kế của cụ N.T.U.

        3. Cụ N.T.U chết ngày 26/10/2002. Vì vậy, xác định thời điểm mở thừa kế là ngày 26/10/2002. Xác định di sản thừa kế của cụ N.T.U gồm: 171,5m2 đất ở và 101,1m2 đất ao tại thửa đất số 312 ở thôn T, xã L, huyện Đ, Thành phố H. Diện tích 171,5m2 đất ở trị giá 3.430.000.000 đồng; diện tích 101,1m2 đất ao trị giá 505.500.000 đồng. Tổng giá trị là: 3.935.500.000đ.

        - Trích công sức 01 kỷ phần thừa kế công sức chăm sóc, lo mai táng cho cụ U và duy trì tôn tạo đất cho ông N.T.M, bà N.T.T. Ông M chết nên vợ ông M là bà N.T.T và 03 người con gồm: Anh N.T.Q, chị N.T.T và chị N.T.T được hưởng phần thừa kế của ông M.

        - Hàng thừa kế thứ nhất của cụ N.T.U gồm: Bà N.T.S được hưởng 01 kỷ phần thừa kế. Bà N.T.H được hưởng 01 kỷ phần thừa kế. Bà N.T.M được hưởng 01 kỷ phần thừa kế. Bà N.T.H được hưởng 01 kỷ phần thừa kế. Ông N.T.M được hưởng 01 kỷ phần thừa kế. Ông M chết năm 2018 nên vợ ông M là bà N.T.T và 03 người con gồm: Anh N.T.Q, chị N.T.T và chị N.T.T được hưởng phần thừa kế của ông M.

        - Chia di sản của cụ N.T.U để lại theo qui định của pháp luật. Giá trị tài sản thừa kế theo kỷ phần thừa kế được hưởng là 3.935.500.000 đồng : 6 = 655.916.666 đồng.

        - Ghi nhận sự tự nguyện của bà N.T.H, bà N.T.M, bà N.T.T, chị N.T.T và chị N.T.T đều có văn bản cho anh N.T.Q hưởng phần được thừa kế của mình.                                                                               

        4. Phần chia hiện vật cụ thể như sau:

        + Giao cho anh N.T.Q sử dụng diện tích 171,5m2 đất ở và 101,1m2 đất ao tại thửa đất số 312 ở thôn T, xã L, huyện Đ, Thành phố H là tài sản của cụ N.T.S, do hết thời hiệu khởi kiện.

        + Chia cho anh N.T.Q được hưởng di sản của cụ N.T.U là 171,5m2 đất ở và 101,1m2 đất ao tại thửa đất số 312 ở thôn T, xã L, huyện Đ, Thành phố H.

        + Anh N.T.Q có trách nhiệm thanh toán trả bà N.T.S  655.916.666 đồng.

        + Anh N.T.Q có trách nhiệm thanh toán trả bà N.T.H  655.916.666 đồng.

        5. Người được chia (giao) quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất có quyền, nghĩa vụ đến Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký kê khai; đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với phần diện tích đất được chia (giao) theo quy định của pháp luật về đất đai. Ngoài ra Toà án còn tuyên về án phí, việc thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

        * Lý do hủy bản án sơ thẩm và những vấn đề cần rút kinh nghiệm:

        - Xác định thời hiệu thừa kế không đúng quy định pháp luật:

        Cụ N.T.S (chết ngày 10/5/1990) và cụ N.T.U, chết ngày 26/10/2002. Hai cụ để lại di sản thừa kế là thửa đất số 312, diện tích 480,4m2 (theo bản đồ năm 2002), diện tích đo thực tế là 545,2m2, trong đó: 343m2 đất ở và 202,2m2 đất ao tại thôn T, xã L, huyện Đ, Thành phố H.

        Các đương sự đều xác định, tại thời điểm cụ S chết, trên diện tích đất ở có 01 nhà cấp 4 do cụ S và cụ U xây dựng năm 1963 và 01 nhà mái bằng xây dựng năm 1988 nhưng đến năm 2017 gia đình bà T, anh Q đã phá bỏ để xây nhà mới như hiện nay.

        Cụ S chết 10/5/1990, theo khoản 1 điều 623 BLDS 2015, thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản. Do thừa kế mở trước ngày 10/9/1990 nên theo Hướng dẫn tại giải đáp nghiệp vụ số 01 ngày 05/01/2018 của Tòa án Tối cao thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10/9/1990.

        Tại I.2.2.a nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao qui định: “ Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 1/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 1/7/1996 đến ngày 1/1/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện”.

        Theo quy định trên thì thời hiệu khởi kiện đối với di sản thừa kế là nhà (gắn liền với quyền sử dụng đất) được xác định đến ngày 10/3/2023, còn quyền sử dụng đối với diện tích đất ao được xác định đến ngày 10/9/2020. Ngày 7/1/2021, bà S có đơn khởi kiện là còn trong thời hiệu khởi kiện đối với diện tích 343m2 đất ở. Đối với diện tích đất ao, Tòa án cấp sơ thẩm xác định hết thời hiệu chia di sản thừa kế của cụ S là phù hợp quy định của pháp luật.

        Do Tòa án sơ thẩm xác định thời hiệu chia di sản thừa kế đối với diện tích đất ở của cụ S đã hết thời hiệu nên đình chỉ yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn và giao diện tích đất của cụ S cho anh Q sử dụng là không phù hợp với qui định của pháp luật.

        2. Vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất” bị cấp phúc thẩm hủy án do đánh giá chứng cứ chưa khách quan và đưa thiếu người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

        * Nội dung vụ án:

        - Nguyên đơn - bà C.T.Q, trình bày: Năm 1976, bà có mua 530m2 đất giá 140.000đ của ông N.V.T ở thôn N, xã K, huyện T, TP. H. Mục đích đón bố mẹ ở Hà Giang về và cho hai em là ông N, ông S ở. Nguồn tiền mua thửa đất là của bà có 100.000đ, của ông C.V.N 20.000đ, của ông C.V.S 20.000đ. Thửa đất do ông N đứng tên.

        Năm 1986, ông N không có tiền làm nhà nên xin bà cho ông Nho bán  215m2 đất cho ông C.C.Q và bà H.T.Y, bà đã đồng ý. Diện tích đất còn lại là 315m2. Năm 1995, ông N chết, bà N.T.Q (vợ ông N) cùng các con vẫn sinh sống trên thửa đất. Sau này bà mới biết anh C.V.T là con trai của ông Nho đã làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh C.

        Bà Q khởi kiện yêu cầu anh T trả lại bà thửa đất số 176, tờ bản đồ số 10, diện tích 315m2, địa chỉ: Thôn N, xã K, huyện T, TP. H và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh C để bà đứng tên thửa đất trên.

        - Bị đơn - anh C.V.T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan- bà N.T.Q, trình bày:

        Về nguồn gốc thửa đất số 176, tờ bản đồ số 10, diện tích 315m2, địa chỉ: Thôn N, xã K, huyện T, TP. H là do ông N và bà Q mua của ông T ở cùng thôn. Tuy nhiên anh T, bà Q không có tài liệu gì chứng minh.

        Năm 1995, ông N chết, trên đất có bà Q và vợ chồng anh T ở. Toàn bộ các công trình trên đất gồm nhà cấp 4, công trình phụ đều do gia đình anh T làm. Năm 2002, anh T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất. Đến năm 2017, giấy chứng nhận bị thu hồi.     

        Anh T, bà N.T.Q không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà Q.  

        * Quá trình giải quyết:

        Bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện T, quyết định: Không chấp nhận đơn khởi kiện của bà C.T.Q đối với anh C.V.T về việc yêu cầu anh C.V.T trả lại bà thửa đất số 176, tờ bản đồ số 10, diện tích 315m2, địa chỉ: Thôn N, xã K, huyện T, TP. H, đứng tên anh C.V.T. Ngoài ra Toà án còn tuyên về án phí, việc thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

        * Lý do cấp phúc thẩm hủy án và vấn đề phải rút kinh nghiệm:

        - Về đánh giá chứng cứ chưa khách quan và đưa thiếu người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

        Theo bà Q: Nguồn gốc thửa đất số 176, tờ bản đồ số 10, diện tích 315m2 đứng tên anh Cấn Văn Thành tại thôn N, xã  K, huyện T, TP. Hà Nội là bà mua của ông N.V.T ở thôn N, xã K vào năm 1976 giá 140.000đ gồm của bà có 100.000đ, của ông C.V.N có 20.000đ, của ông C.V.S có 20.000đ. Thửa đất trị giá 140.000đ. Bà Quán không có tài liệu về việc mua bán năm 1976.

        Tuy nhiên bà Q có cung cấp được đơn chứng thực của ông N.V.T ngày 21/7/2017 nội dung: Năm 1976, ông Trách có bán cho bà Q 530m2 đất với số tiền 140.000đ. Tại bản tường trình đứng tên bà N.T.Q (có điểm chỉ, không kí) ngày 28/4/2016 và đơn kiến nghị ngày 14/7/2016 đứng tên bà N.T.Q (có chữ kí của các con bà N.T.Q là C.T.L, C.T.L, C.T.Q, C.T.H, C.T.T) được lưu tại hồ sơ do thanh tra huyện T cung cấp đều thể hiện nội dung thửa đất tranh chấp là do bà Q, ông N, ông S chung tiền mua thửa đất đang tranh chấp.

        Tại biên bản làm việc ngày 14/9/2016 tại nhà văn hóa thôn P gồm có bà Q, bà N.T.Q, anh T cùng các con của bà N.T.Q là chị L, chị L, chị Q, chị H, chị T. Tóm tắt nội dung về nguồn gốc đất theo đơn của bà N.T.Q, bà Q và các chị là con bà N.T.Q: Căn cứ vào nội dung đơn của bà N.T.Q: Thửa đất số 176, tờ bản đồ số 10, diện tích 315m2 đứng tên anh C.V.T do ông C.V.N, bố đẻ của ông C.X.C, ông C.V.S và bà C.T.Q mua từ năm 1976. Biên bản lập xong thì bà Q, bà N.T.Q điểm chỉ, còn các chị con bà N.T.Q đều kí vào biên bản mà không có phản đối gì về nguồn gốc đất tranh chấp.

        Tại biên bản làm việc ngày 20/7/2017, tại Hội trường UBND xã P, bà N.T.Q đồng ý cắt cho các con ông S 100m2 tại thửa đất tranh chấp, anh T cũng kí vào biên bản và không có ý kiến phản đối gì.

        Như vậy thấy, có căn cứ xác định thửa đất đang tranh chấp là tài sản chung của bà Q, ông N và ông S nhưng Tòa án sơ thẩm không xem xét  đến quyền lợi của bà Q, không đưa ông C.V.S tham gia tố tụng là thiếu sót.

        - Biên bản làm việc của thanh tra huyện T ngày 25/4/2016 tại UBND xã P, thông báo của UBND huyện T về kết luận thẩm tra việc cấp GCNQSD thửa số 176 cho ông T: Thửa đất số 176, tờ bản đồ số 10, diện tích 315m2 bị đo nhầm vào 1 phần diện tích đất của thửa 183, chủ sử dụng ông D.V.T.

        Bà Q khởi kiện toàn bộ 315m2 đất nhưng bản án sơ thẩm không đưa ông D.V.T tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; chưa làm rõ diện tích, vị trí đất của gia đình ông T trong tổng số 315m2 đất đang tranh chấp là thiếu sót.

        - Về việc định giá: Theo biên bản định giá ngày 19/5/2022 của Hội đồng định giá huyện T định giá Thửa đất số 176, tờ bản đồ số 10 diện tích 315m2 tại xã P có giá 3.235.000đ/m2 theo quyết định số 30 ngày 31/12/2019 của UBNDTP Hà Nội mà không định giá theo giá thị trường là không đúng quy định tại khoản 5 điều 104 BLTTDS.

        Do Tòa án cấp sơ thẩm có những thiếu sót như đã phân tích nêu trên, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được nên quyết định hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại là phù hợp quy định của pháp luật. Các đơn vị VKS cấp huyện cần rút kinh nghiệm khi kiểm sát việc giải quyết các vụ án tương tự.

Ngô Phương Liên, Trần Thị Luyến, Nguyễn Hồng Hạnh – Phòng 9

 

HÌNH ẢNH

ĐĂNG NHẬP

Website liên kết

Thống kê truy cập

Đang truy cập Đang truy cập : 19

Tổng lượt truy cập Tổng lượt truy cập : 1463762