TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN THEO QUY ĐỊNH CỦA BLHS 2015
BLHS 2015 được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 27/11/2015 đã có những sửa đổi bổ sung mang tính chất đột phá. Trong đó cơ bản nhất là việc lần đầu tiên quy định pháp nhân là chủ thể của một số tội phạm. Cơ sở trách nhiệm hình sự của pháp nhân được quy định gồm các vấn đề: chính sách xử lý hình sự đối với các pháp nhân thực hiện hành vi phạm tội; những loại tội phạm nào thì pháp nhân sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự; loại pháp nhân nào phải chịu trách nhiệm hình sự; các chế tài áp dụng đối với pháp nhân. Cụ thể:
- Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân và loại tội pháp nhân chịu trách nhiệm hình sự:
Thứ nhất, cơ sở của trách nhiệm hình sự của pháp nhân được quy định tại Điều 2 BLHS 2015
1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Theo quy định này chủ thể của tội phạm gồm cá nhân và pháp nhân thương mại:
Cá nhân là chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực TNHS, đủ độ tuổi luật định đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm và pháp nhân thương mại.
Pháp nhân chịu TNHS theo quy định của BLHS 2015 là pháp nhân thương mại phạm tội được quy định trong Điều 76 BLHS 2015 mới trở thành chủ thể của tội phạm. Theo quy định tại Điều 2 các pháp nhân không phải là pháp nhân thương mại không phải là chủ thể chịu TNHS. VD: như cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội… Quy định này trong giai đoạn hiện nay cũng là phù hợp phù hợp với tình hình tội phạm, phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và công cuộc hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở bổ sung TNHS của pháp nhân tại Điều 2, khái niệm tội phạm tại Điều 8 cũng đã được sửa đổi cho phù hợp cụ thể như sau:
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác.
Thứ hai, về loại tội mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 76 BLHS Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại quy định: Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm sau đây:
“1. Điều 188 (tội buôn lậu); Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 196 (tội đầu cơ); Điều 200 (tội trốn thuế); Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ); Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán); Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm); Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng); Điều 234 (Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã);
2. Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường); Điều 237 (tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường); Điều 238 (tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông); Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 242 (tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản); Điều 243 (tội huỷ hoại rừng); Điều 244 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm); Điều 245 (tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên); Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại)”
BLHS 2015 đã quy định diện các loại tội mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự tương đối bao quát đủ để xử lý các hành vi vi phạm nghiêm trọng của pháp nhân gây thiệt hại cho kinh tế, môi trường và tính mạng, sức khỏe của con người cũng như đáp ứng yêu cầu thực tế. Quá trình lấy ý kiến vào bản dự thảo sửa đổi, bổ sung BLHS cũng có nhiều ý kiến đề nghị cho rằng cần bổ sung thêm một số tội danh khác mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, theo nhận định chung của các nhà khoa học nghiên cứu luật hình sự thì vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân là vấn đề mới, vì thế nên hết sức thận trọng, có lộ trình, bước đi phù hợp để tránh gây xáo trộn lớn trong việc tổ chức thi hành chính sách về hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án hình sự. Trước mắt, nên tập trung vào nhóm tội hiện đang gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, sản xuất kinh doanh, bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Do vậy, việc giới hạn phạm vi trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với 31 tội danh thuộc nhóm tội phạm về kinh tế, môi trường, tham nhũng là phù hợp. Ngoài những loại tội được liệt kê tại Điều 76 BLHS 2015, đối với các tội phạm khác pháp nhân thương mại không phải là chủ thể của tội phạm.
Thứ ba: nguyên tắc xử lý và hình phạt áp dụng đối với pháp nhân phạm tội. Nguyên tắc xử lý đối pháp nhân phạm tội được quy định tại Điều 75 BLHS 2015 quy định Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại;
d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.
2. Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân.
Quy định trên đã thể hiện được đường lối xử lý các hành vi phạm tội của pháp nhân mà các nhà lập pháp xây dựng trong đó nhấn mạnh không loại trừ TNHS của cá nhân nếu cá nhân đó có lỗi khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của bản thân trong quá trình điều hành pháp nhân.
- Các hình phạt áp dụng đối với pháp nhân quy định tại Điều 33 BLHS 2015 gồm hình phạt chính (Phạt tiền; Tước quyền sử dụng giấy phép có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tước quyền sử dụng giấy phép vĩnh viễn hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.), hình phạt bổ sung (Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; Cấm huy động vốn; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính).
Việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân vào thời điểm này là cần thiết và đúng lúc vì:
- Tình hình vi phạm pháp luật do pháp nhân thực hiện diễn ra phức tạp, ngày càng nghiêm trọng và có xu hướng gia tăng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống an lành của người dân và gây mất trật tự, an toàn xã hội;
- Hệ thống pháp luật hiện hành còn nhiều bất cập mặc dù đã có chế tài xử phạt hành chính, quy định của pháp luật dân sự, kinh tế nhưng không hiệu quả; cơ chế bảo vệ của pháp luật đối với những người yếu thế trong xã hội khi xảy ra trường hợp pháp nhân vi phạm pháp luật nghiêm trọng đối với họ chưa thực sự đảm bảo. Do đó, trách nhiệm xử lý pháp nhân theo quy định của pháp luật hình sự phải thuộc về Nhà nước, chủ thể có đầy đủ sức mạnh, nguồn lực và thẩm quyền để thực hiện. Việc quy định xử lý hình sự đối với pháp nhân cũng là một biện pháp quan trọng hàng đầu nhằm đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong xử lý pháp nhân khi có vi phạm pháp luật xảy ra, đồng thời, tránh việc bỏ lọt tội phạm; với việc quy định TNHS của pháp nhân sẽ đưa ra cơ sở pháp lý để quy định trình tự thủ tục tố tụng hình sự chặt chẽ với pháp nhân, góp phần bảo đảm khách quan, hiệu quả hơn trong việc xử lý hành vi vi phạm của pháp nhân so với các chế tài xử lý hiện hành. Đồng thời, tăng cường bảo vệ quyền lợi của người dân khi thực hiện khiếu nại, khởi kiện; tạo cơ sở pháp lý để xử lý những pháp nhân vì lợi nhuận mà bất chấp pháp luật của Nhà nước, xem thường tính mạng, sức khỏe của người dân, lũng đoạn thị trường, phá vỡ trật tự quản lý của nền kinh tế đất nước cũng như để can thiệp vào hoạt động của các nhóm tội phạm có tổ chức tồn tại dưới hình thức hợp pháp là công ty, như các nhóm tội phạm hoạt động buôn lậu, rửa tiền, buôn bán người, buôn bán trẻ em, ma túy...
- Việc quy định xử lý hình sự đối với pháp nhân là xu thế chung trên thế giới và sẽ đáp ứng yêu cầu của một số điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Huyền Phương - Kiểm sát viên Phòng 10