QUYỀN CÔNG TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP CAO

Huỳnh Phương Linh

1. Đặt vấn đề

          Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2014 qui định thành lập hệ thống Viện kiểm sát nhân dân gồm: VKSND tối cao, VKSND cấp cao, VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp huyện, VKS quân sự các cấp (Điều 40). Trong đó VKSND cấp cao là một thiết chế mới so với luật tổ chức cũ.

          Trong bốn cấp VKSND thì VKSND cấp cao là cấp kiểm sát chỉ được tổ chức theo thẩm quyền xét xử của tòa án, không phụ thuộc vào phân cấp đơn vị hành chính, không chịu sự lãnh đạo của cơ quan đảng ở địa phương, không có trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân; không có quan hệ công tác trực tiếp, thường xuyên với các cơ quan nhà nước ở một địa phương nhất định; không thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đây rõ ràng là điểm khác biệt lớn giữa VKSND cấp cao với các cấp VKSND khác trong hệ thống.

          Do nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND cấp cao gắn liền với thẩm quyền xét xử của TAND cấp cao nên VKSND cấp cao được tổ chức tương ứng với TAND cấp cao về số lượng và địa hạt tư pháp. Hiện tại, có ba VKSND cấp cao được thành lập tại ba khu vực, đặt trụ sở tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ chế Đảng lãnh đạo và giám sát hoạt động VKSND cấp cao cũng có đặc thù riêng, theo Kết luận số 79-KL/TW, các tổ chức Đảng của VKSND cấp cao sẽ thực thuộc Đảng bộ VKSND tối cao; VKSND cấp cao chịu sự giám sát của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua VKSND tối cao hoặc cũng có thể chịu sự giám sát trực tiếp của các cơ quan này theo yêu cầu .

          Khoản 2 Điều 41 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 qui định nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND cấp cao: “Viện kiểm sát nhân dân cấp cao thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp cao”. Đối chiếu với Điều 29 Luật Tổ chức tòa án nhân dân (TAND) năm 2014 qui định thẩm quyền của TAND bao gồm: (1) Phúc thẩm vụ việc mà bản án, quyết định sơ thẩm của TAND cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị; (2) Giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh; TAND cấp huyện và tương đương thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ bị kháng nghị.

          Như vậy, khi đi vào hoạt động VKSND cấp cao vừa thực hiện công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm như hiện nay, vừa đảm nhận toàn bộ nhiệm vụ công tác kiểm sát giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của các VKSND cấp tỉnh và phần lớn nhiệm vụ công tác kiểm sát giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm từ Vụ 3, Vụ 5, Vụ 12 VKSND tối cao. Ngoài ra, VKSND cấp cao còn thực hiện nhiệm vụ: “Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra hoạt động nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của VKSND cấp tỉnh, VKSND cấp huyện.” Chúng tôi tiên lượng, lượng công việc sẽ tăng lên nhiều so với công việc của các Viện phúc thẩm hiện nay. Trong khung khổ bài viết này, chúng tôi chủ yếu đưa ra những trao đổi xung quanh quyền công tố của VKSND cấp cao – một thiết chế mới trong Luật Tổ chức VKSND năm 2014.

2. Quyền công tố của VKSND cấp cao

2.1. Nguyên tắc thực hành quyền công tố của VKSND

          Theo  Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì thực hành quyền công tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự .

          Mục đích VKSND thực hành quyền công tố nhằm đảm bảo:

          - Mọi hành vi phạm tội, người phạm tội phải được phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội;

          - Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật. Điều khoản này rất đáng lưu tâm, giúp ngăn chặn sự tùy tiện của công quyền, đặt mọi hoạt động tố tụng nằm trong giới hạn của luật tố tụng.

          Theo đó, nội hàm quyền công tố của VKSND bao gồm:

          - Yêu cầu khởi tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi tố vụ án, khởi tố bị can trong những trường hợp do Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) qui định;

          - Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong việc khởi tố, điều tra, truy tố theo qui định của BLTTHS;

          - Hủy bỏ các quyết định tố tụng trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

          - Khi cần thiết đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện;

          - Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, người phạm tội;

          - Trược tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành một số hoạt động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với người phạm tội;

          - Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, các tội phạm về tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tư pháp theo qui định của luật;

          - Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố;

          - Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa;

          - Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp VKSND phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội;

          - Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội đối với người phạm tội theo qui định của BLTTHS.

          Theo Điều 41 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 thì VKSND cấp cao sẽ thực hành quyền công tố đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp cao. Sau đây, chúng tôi sẽ trao đổi những trọng tâm đó.

2.2. Quyền công tố của VKSND cấp cao trong việc giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm

          Căn cứ vào các qui định tại Điều 3, Điều 41 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 29 Luật Tổ chức TAND năm 2014, có thể xác định VKSND cấp cao có chức năng thực hiện quyền công tố trong việc giải quyết vụ án hình sự theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm như sau:

          (1) Thực hành quyền công tố đối với các vụ án, vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND cấp cao, gồm có:

          - Thực hành quyền công tố việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị;

          - Thực hành quyền công tố việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện và tương đương; TAND cấp tỉnh bị kháng nghị;

          - Thực hành quyền công tố trong hoạt động tương trợ tư pháp do TAND cấp cao thực hiện.

          (2) Giải quyết kiến nghị, đơn để nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện và tương đương; TAND cấp tỉnh đã được VKSND cấp tỉnh, VKSND tối cao thụ lý mà chưa được giải quyết (về thẩm quyền này sẽ được chúng tôi phân tích riêng tại mục 2.3.)

          (3) Viện trưởng VKSND cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh; kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện và tương đương; TAND cấp tỉnh trong phạm vi lãnh thổ thuộc thẩm quyền.

          Theo qui định tại các khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 2 của Nghị quyết số 82/2014/QH13 của Quốc hội về việc thi hành Luật Tổ chức VKSND thì kể từ ngày 01 tháng 6 năm 2015, VKSND tối cao sẽ chuyển giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong hoạt động xét xử phúc thẩm cho VKSND cấp cao; VKSND cấp tỉnh sẽ chuyển giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố trong xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm cho VKSND cấp cao để VKSND cấp cao bắt đầu thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của một cấp kiểm sát mới, độc lập trong hệ thống VKSND. Đối với vác vụ án, vụ việc đã phát sinh trước ngày thành lập VKSND cấp cao do VKSND tối cao và cấp tỉnh chuyển giao thì VKSND cấp cao tiếp nhận để giải quyết trong các trường hợp cụ thể sau đây:

          - Bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh đã có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm mà chưa được giải quyết thì VKSND cấp cao thực hành quyền công tố việc giải quyết theo thủ tục phúc thẩm tại TAND cấp cao;

          - Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện và tương đương; TAND cấp tỉnh đã có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm mà chưa được giải quyết thì VKSND cấp cao thực hành quyền công tố việc giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại TAND cấp cao;

          - Kiến nghị, đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện và tương đương, TAND cấp tỉnh đã được VKSND cấp tỉnh, VKSND tối cao thụ lý mà chưa được giải quyết thì VKSND cấp cao trực tiếp giải quyết. Viện trưởng VKSND cấp cao thực hiện quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu có căn cứ pháp luật qui định.

          Như vậy, theo qui định của Nghị quyết số 82/2014/QH13 (nêu trên) thì nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND cấp theo theo Luật Tổ chức VKSND năm 2014 sẽ được thực hiện ngay từ thời điểm Luật Tổ chức VKSND năm 2014 có hiệu lực thi hành mà không cần chờ Quốc hội sửa đổi, bổ sung các đạo luật về tố tụng hình sự, dân sự, hành chính. Việc thực hiện quyền công tố hoạt động xét xử vụ án hình sự của VKSND cấp cao ở những khía cạnh khác được thực hiện theo trình tự, thủ tục do các đạo luật về tố tụng hiện hành qui định.

2.3. Giải quyết kiến nghị, đơn để nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án TAND cấp huyện và tương đương; TAND cấp tỉnh đã được VKSND cấp tỉnh, VKSND tối cao thụ lý mà chưa được giải quyết [8]

          Hiện tại theo phân cấp, VKSND tối cao có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh và các Tòa phúc thẩm, các Tòa chuyên trách của TAND tối cao; VKSND cấp tỉnh có thẩm quyền kháng nghị các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện. Việc tiếp nhận, phân loại xử lý, quản lý đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm do đơn vị khiếu tố VKSND cấp tỉnh và VKSND tối cao thực hiện. Đơn vị khiếu tố có nhiệm vụ nghiên cứu phân loại, kiểm tra điều kiện thụ lý. Nếu đơn đủ điều kiện thụ lý thì cấp giấy xác nhận đơn (trong tố tụng dân sự và hành chính) và chuyển đến các đơn vị nghiệp vụ để giải quyêt; nếu đơn không đủ điều kiện thụ lý thì trả lại đơn và giải quyết khiếu nại đối với việc trả lại đơn (nếu có); nếu đơn chưa đủ điều kiện thụ lý thì hướng dẫn đương sự cung cấp tài liệu bổ sung; đối với đơn không thuộc cấp mình thì chuyển đến VKS có thẩm quyền giải quyết.

          Đến nay, VKSND có thẩm quyền giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện, cấp tỉnh. Do vậy, việc tiếp nhận xử lý, quản lý các loại đơn này sẽ thuộc trách nhiệm của VKSND cấp cao. Trước mắt, để VKSND cấp cao thực hiện tốt nghiệm vụ này, VKSND tối cao và VKSND cấp tỉnh cần thực hiện việc chuyển giao toàn bộ đơn đã tiếp nhận, thụ lý thuộc thẩm quyền cho VKSND cấp cao. Tuy nhiên, do Luật Tổ chức VKSND mới có hiệu lực từ ngày 01/6/2015 nên phần lớn người dân chưa biết đến sự thay đổi thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm của VKSND cấp cao, nên có thể trong thời gian tới, đơn vẫn sẽ tập trung gửi đến VKSND tối cao, VKSND cấp tỉnh và số lượng đơn tiếp nhận chưa có thay đổi đáng kể. Để đảm bảo xem xét giải quyết của VKSND cấp cao và hạn chế sự vòng vo trong công tác tiếp nhận, chuyển đơn, VKSND tối cao cần thiết phải qui định cụ thể về qui trình xử lý và sự phối hợp giữa VKSND tối cao, VKSND cấp tỉnh với VKSND cấp cao theo hướng: khi nhận được đơn thuộc thẩm quyền của VKSND cấp cao, đơn vị khiếu tố của VKSND tối cao và VKSND cấp tỉnh cần lập danh sách rồi chuyển đến VKSND cấp cao để thực hiện việc xử lý, thụ lý, giải quyết và quản lý nhà nước trong phạm vi thẩm quyền. VKSNS cấp cao có trách nhiệm kiểm tra điều kiện thụ lý, cấp giấy xác nhận đơn theo qui định của pháp luật và thực hiện trình tự, thủ tục giải quyết, quản lý nhà nước về việc giải quyết loại đơn này.

ĐỖ DƯƠNG TOÀN

 Viện trưởng VKSND quận Hoàn Kiếm

Bài viết trước Hà Nội: Giới thiệu nội dung Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND
Bài viết tiếp theo Chúc mừng các trại giam, trại tạm giam đóng trên địa bàn Hà Nội nhân kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống Công an nhân dân (19/8/1945 – 19/8/2015)
In
793 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
TIN MỚI NHẤT
Tin đọc nhiều