Nhận diện một số dạng vi phạm của Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự

Nguyễn Thị Xuân Quỳnh

        Trong những năm gần đây, công tác kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội không ngừng được tăng cường, chất lượng và hiệu quả ngày càng nâng cao. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, vẫn còn tồn tại không ít vi phạm của Tòa án trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, dẫn đến tình trạng án bị sửa, bị hủy, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Theo thống kê trong năm 2023 và 06 tháng đầu năm 2024, Tòa án hai cấp thành phố Hà Nội đã thụ lý 36.574 vụ việc sơ thẩm; 1.647 vụ việc phúc thẩm. Đã giải quyết 30.161 vụ, việc sơ thẩm (đạt tỷ lệ 82.5%) và 1.328 vụ việc phúc thẩm (đạt tỷ lệ 80.6%). Trong đó cấp phúc thẩm đã xét xử 1.259 vụ, cụ thể: sửa án 559 vụ (chiếm tỷ lệ 1.89%) - sửa lớn 41 vụ, hủy và đình chỉ giải quyết vụ án do đương sự rút đơn 28 vụ, hủy để giải quyết lại 45 vụ (chiếm tỷ lệ 0.15% - trong đó có 14 vụ hủy có trách nhiệm của Viện kiểm sát).

        Qua nghiên cứu các bản án bị cấp phúc thẩm hủy án và sửa lớn cho thấy ngoài những vụ án bị sửa, hủy do phát sinh tình tiết mới tại cấp phúc thẩm, vi phạm chủ yếu và phổ biến dẫn đến Tòa sửa, hủy án là những vi phạm nghiêm trọng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành như: Thụ lý không đúng thẩm quyền, xác định không đúng quan hệ pháp luật, xác định không đúng tư cách người tham gia tố tụng, vi phạm trong đánh giá, xác minh, thu thập chứng cứ; tổng đạt văn bản tố tụng của Tòa án không hợp lệ,…. Cụ thể trong bài viết này, chúng tôi đã tổng hợp một số dạng vi phạm phổ biến dẫn đến cấp phúc thẩm phải sửa hoặc hủy án.

        1. Vi phạm về tố tụng

        1.1. Giải quyết vụ, việc dân sự không đúng thẩm quyền

        Theo quy định tại khoản 1 Điều 41 BLTTDS năm 2015:“Vụ việc dân sự đã được thụ lý mà không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án đã thụ lý thì Tòa án đó ra quyết định chuyển hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án có thẩm quyền và xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý”. Điểm đ khoản 1 Điều 192, điểm g khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015 quy định Tòa án trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp “vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”, nếu Tòa án đã thụ lý thì phải đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Trên thực tế đã có nhiều trường hợp Tòa án thụ lý vụ án không đúng thẩm quyền như: Vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh nhưng Tòa án cấp huyện lại thụ lý để giải quyết hoặc vụ án của Tòa án cấp tỉnh nhưng Tòa án cấp tỉnh lại chuyển Tòa án cấp huyện giải quyết; hoặc tranh chấp đương sự đã yêu cầu UBND giải quyết nhưng Tòa án vẫn thụ lý, giải quyết.

        Như vụ án “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp, huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn bà Tài Thị Phương và bị đơn ông Nguyễn Xuân Kiên, bà Nguyễn Thị Loan. Chị Thu là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan hiện đang sinh sống tại Nhật Bản nhưng TAND huyện HĐ không xác minh cụ thể nơi cư trú của chị Thu để xác định thẩm quyền giải quyết. Nguyên đơn yêu cầu huỷ các Quyết định của UBND huyện liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi các thửa đất 650, 651, yêu cầu UBND huyện thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ đối với 02 thửa đất trên cho gia đình, các yêu cầu này thuộc thẩm quyền của TAND thành phố theo quy định tại Điều 3, 30, khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 nhưng cấp sơ thẩm vẫn thụ lý là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

        Vụ án “Tranh chấp Hợp đồng thế chấp giữa nguyên đơn chị Vũ Thị Như Quỳnh và bị đơn Ngân hàng Agribank. Công ty TNHH Phúc Phúc Thảo vay vốn tại Ngân hàng Agribank chi nhánh miền Đông trong đó thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất của chị Quỳnh, TAND thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh đã thụ lý vụ án KDTM tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng Agribank và Công ty TNHH Phúc Phúc Thảo, đưa chị Quỳnh là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên sau đó chị Quỳnh lại khởi kiện vụ án tranh chấp hợp đồng thế chấp với Ngân hàng Agribank đề nghị được trả tiền để giải chấp tài sản, do đó yêu cầu khởi kiện này của chị Quỳnh được xác định là yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng do Toà án Thủ Đức đang thụ lý giải quyết. Việc TAND quận BĐ tiếp tục giải quyết vụ án mà không chuyển vụ án đến TAND thành phố Thủ Đức để nhập vào vụ án KDTM để giải quyết trong cùng vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng (Điều 41, 42 BLTTDS), Toà án cấp phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án đến TAND thành phố Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh để nhập vào vụ án.

        Hoặc vụ việc đã được giải quyết bằng quyết định đã có hiệu lực của cơ quan có thẩm quyền nhưng Tòa án vẫn thụ lý giải quyết, như vụ “Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn cụ Vũ Quang Hỹ và bị đơn ông Vũ Quang Can, vụ việc đã được khiếu nại và đã có Quyết định giải quyết khiếu nại của UBND thành phố Hà Nội có hiệu lực pháp luật nhưng TAND huyện GL vẫn thụ lý sau đó xét xử sơ thẩm và ban hành bản án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng quy định tại điểm c khoản 1 Điều 192, điểm g khoản 1 Điều 217 BLTTDS. Viện KSND thành phố đã ban hành Quyết định kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, TAND thành phố đã chấp nhận kháng nghị, hủy bản án sơ thẩm của TAND huyện GL, đình chỉ giải quyết vụ án.

        1.2. Không giải quyết hoặc giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự

        Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi khởi kiện, yêu cầu đó (Điều 5 BLTTDS). Phạm vi khởi kiện của các đương sự được thể hiện trong đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản tố, đơn yêu cầu độc lập. Khi được phân công giải quyết vụ án phải xác đúng và đầy đủ yêu cầu của đương sự trong vụ án. Thực tiễn xét xử cho thấy vi phạm phổ biến trong việc giải quyết yêu cầu của đương sự như: Không thụ lý hết yêu cầu của đương sự; giải quyết không hết, không đúng hoặc giải quyết ngoài phạm vi khởi kiện của đương sự, vượt quá thẩm quyền của Tòa án; không đình chỉ giải quyết yêu cầu đương sự đã rút dẫn đến việc Tòa phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm hoặc hủy một phần bản án, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa sơ thẩm giải quyết lại vụ án hoặc phải sửa bản án sơ thẩm.  

        Vụ án “Tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất và công nhận quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Tính và bị đơn bà Hoàng Thị Hà Thanh, anh Hoàng Công Minh, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế nhiều thửa đất, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã rút một phần yêu cầu khởi kiện chia thừa kế đối với thửa đất số 390 (Thửa 1), tờ bản đồ số 03, tuy nhiên TAND huyện HĐ không đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu đã rút mà vẫn tiến hành chia thừa kế đối với thửa đất số 390 nói trên; còn Thửa đất số 261, tờ bản đồ số 05, Tòa án lại không xem xét, quyết định trong bản án là thiếu sót; đối với thửa đất nông nghiệp số 626, tờ bản đồ số 05 Tòa án lại giành quyền khởi kiện cho các đương sự ở một vụ án dân sự khác là không có căn cứ.

        Vụ án “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” giữa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hiền và bị đơn anh Nguyễn Đức Bình: Nguyên đơn có yêu cầu chia tài sản chung là số tiền tiết kiệm 1.500.000.000đ tại ngân hàng Vietinbank, đã nộp tiền tạm ứng án phí nhưng TAND quận TX không tiến hành thu thập chứng cứ, xác minh mà tách yêu cầu trên, giành quyền khởi kiện cho nguyên đơn bằng một vụ kiện dân sự khác là giải quyết vụ án không triệt để, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dẫn đến việc TAND thành phố phảỉ hủy một phần bản án để xét xử lại.

        Hoặc trường hợp Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu nhưng vẫn chấp nhận yêu cầu thực hiện nghĩa vụ của một bên, không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, gây thiệt hại cho đương sự: Về nguyên tắc, Tòa án chỉ giải quyết khi có yêu cầu của đương sự, đồng thời khi đương sự có yêu cầu thì Tòa án phải giải quyết. Tuy nhiên, đối với yêu cầu tuyên bố hợp đồng hoặc giao dịch dân sự vô hiệu, Tòa án phải giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu trừ trường hợp đã giải thích nhưng các đương sự không ai yêu cầu. Trường hợp Tòa án không xem xét, giải quyết là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Như vụ án “Tranh chấp đòi quyền sử dụng nhà cho thuê” giữa nguyên đơn Tổng Công ty Thương mại Hà Nội - Công ty cổ phần HAPRO và bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, TAND quận HK xác định hợp đồng cho thuê nhà giữa Công ty HAPRO và bà Nhung vô hiệu nhưng lại chấp nhận yêu cầu đòi tiền thuê nhà của Công ty HAPRO và không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, ảnh hưởng đến quyền lợi của Nhà nước.

        Vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng và xử lý tài sản thế chấp” giữa nguyên đơn Ngân hàng TMHH MTV Đại Dương và bị đơn anh Bùi Mạnh Cường, chị Nguyễn Thị Loan. Cùng một thửa đất, ông Oai, bà Xoan đã thế chấp đảm bảo cho 02 khoản vay khác nhau tại ngân hàng là hành vi gian dối, có dấu hiệu hình sự. Bản án sơ thẩm xác định hợp đồng thế chấp vô hiệu nhưng không xem xét trách nhiệm của các bên liên quan để giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là giải quyết không triệt để, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. 

        1.3. Xác định không đúng tư cách người tham gia tố tụng

        Việc xác định đúng, đủ tư cách tham gia tố tụng của người người tham gia tố tụng có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án đúng đắn. Xác định sai hoặc đưa thiếu người tham gia tố tụng trong vụ án sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của họ, dẫn đến việc làm sai lệch bản chất vụ việc, mất quyền kháng cáo của đương sự, không đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử trong tố tụng dân sự. Đây là một trong những nguyên nhân phổ biến dẫn đến Tòa án cấp phúc thẩm phải hủy bản án để xét xử lại.

        Xác định không đúng tư cách đương sự, như vụ án Tranh chấp hợp đồng vay tài sản giữa nguyên đơn bà Hoàng Thanh Bình và bị đơn ông Ngô Văn Thăng, bà Trương Thị Hải Yến là người đại diện của Trường mầm non tư thục Bình Minh là bên A trong hợp đồng chuyển nhượng ký với bên B có nguyên đơn và bị đơn, như vậy bà Yến là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án nhưng TAND quận CG xác định bà Yến là người làm chứng là không đúng.

        Nhiều trường hợp Tòa án không đưa đầy đủ người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vào quá trình giải quyết vụ án như không đưa chủ sở hữu tài sản trên đất và những người đang sống trên thửa đất tranh chấp, không đưa Văn phòng công chứng tham gia tố tụng trong các vụ án có đương sự yêu cầu hủy hợp đồng dân sự được công chứng hoặc tuyên văn bản công chứng vô hiệu, không đưa UBND thành phố tham gia tố tụng trong vụ án tranh chấp nhà thuộc sở hữu Nhà nước… Như vụ án Tranh chấp đòi nhà đất giữa nguyên đơn bà Tạ Thị Hiền và bị đơn ông Trần Quang Hà, bị đơn có yêu cầu phản tố đề nghị Toà án tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu nhưng TAND quận TX không đưa Văn phòng công chứng Hà Đông là người công chứng hợp đồng chuyển nhượng trên tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Hay vụ án Tranh chấp đòi quyền sử dụng nhà cho thuê giữa nguyên đơn Tổng Công ty Thương mại Hà Nội - Công ty cổ phần HAPRO với bị đơn bà Nguyễn Thị Tuyết Nhung, diện tích nhà cho thuê tại 71 Hàng Bồ tranh chấp trong vụ án là nhà thuộc sở hữu Nhà nước nhưng TAND quận HK không đưa UBND thành phố Hà Nội tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

        1.4. Xác minh, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ

        Trong tố tụng dân sự, đương sự có nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ và chứng minh, nhưng Toà án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự thực hiện nghĩa vụ chứng minh và chỉ tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp BLTTDS quy định. Nhiều vụ án Tòa án không thu thập đầy đủ chứng cứ chứng minh nhưng đã xét xử, quyết định chấp nhận/không chấp nhận yêu cầu của đương sự là chưa đủ căn cứ. Ví dụ: Không thu thập hồ sơ cấp GCNQSD đất, không xác minh nguồn gốc hình thành tài sản, hồ sơ địa chính, công sức tôn tạo làm tăng giá trị trài sản; không đo đạc, xác định diện tích đất tranh chấp, không xác minh diện tích đất chênh lệch trong các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, thừa kế, ly hôn,…. Điển hình là một số vụ án:

        Vụ án “Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn bà Phạm Thị Minh Phương và bị đơn bà Trần Thị Liên, TAND huyện HĐ chưa thu thập hồ sơ cấp GCNQSD đất cho hộ gia đình, chưa xác minh làm rõ thành viên hộ gia đình bà Phương tại thời điểm kê khai cấp GCNQSD đất mà đã chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn để hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn và bị đơn là chưa đủ căn cứ, xác minh, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ. Ngoài ra, bản án sơ thẩm xác định Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất vô hiệu do đất nông nghiệp đã hết thời hạn sử dụng đất vào thời điểm chuyển nhượng là không đúng quy định tại khoản 3 Điều 210 Luật Đất đai và khoản 2 Điều 74 Nghị định 43 hướng dẫn thi hành Luật Đất đai. Viện KSND huyện HĐ đã kháng nghị phúc thẩm theo hướng hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại. Tòa án cấp phúc thẩm đã khắc phục, xác minh thu thập tài liệu chứng cứ bổ sung, căn cứ các tài liệu thu thập được bản án phúc thẩm đã sửa án, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, công nhận hợp đồng chuyển nhượng QSD đất trên.

        Vụ án Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất“ giữa nguyên đơn ông Dương Văn Liệu và bị đơn ông Dương Văn Học, TAND huyện PT chưa xác minh, thu thập tài liệu tại các cơ quan có thẩm quyền để làm rõ bị đơn - ông Học có phải là con nuôi của cụ Lộc, cụ Mực hay không để có cơ sở xác định ông Học có được các cụ chia đất không; sau khi ông Học giao nộp bản gốc Biên bản chia đất ở và các văn bản liên quan đến bàn giao đất Tòa án không xác minh, lấy lời khai những người làm chứng, không tiến hành trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết của những người liên quan trong các văn bản trên, chưa xác minh về việc xây dựng công trình nhà ở cấp 4 trên đất nhưng đã bác yêu cầu phản tố của bị đơn là thiếu căn cứ.

        Vụ án “Tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất và công nhận quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Tính và bị đơn bà Hoàng Thị Hà Thanh, anh Hoàng Công Minh, chưa đủ căn cứ xác định thửa đất thổ cư vợ chồng cụ Thống, cụ Chín giao cho riêng ông Tâm hay giao cho chung ông Tâm, bà Tính, công sức đóng góp cua bà Tính đối với thửa đất; ngoài ra nguyên đơn đã giao nộp Giấy chuyển nhượng cho Tòa án được thể hiện tại Biên bản giao nhận chứng cứ nhưng Tòa án cho rằng nguyên đơn không cung cấp được tài liệu về giao dịch chuyển nhượng nên không chấp nhận yêu cầu công nhận giao dịch. Tòa án cũng chưa tiến hành xác minh làm rõ tài sản trên đất có còn là di sản của ông Tâm hay không nhưng đã tiến hành chia thừa kế là chưa có cơ sở vững chắc.

        Vi phạm trong việc xác định giá trị tài sản thường xảy ra trong các vụ án tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất không xác định giá trị đất phù hợp với giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Điểm c khoản 1 Điều 112 Luật Đất đai năm 2013 quy định việc định giá đất phải "phù hợp với giá đất phổ biến trên thị trường của loại đất có cùng mục đích sử dụng đã chuyển nhượng, giá trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với những nơi có đấu giá quyền sử dụng đất hoặc thu nhập từ việc sử dụng đất". Vụ án “Tranh chấp đòi nhà, tranh chấp hợp đồng mua bán nhà” giữa nguyên đơn bà Đỗ Thị Hằng và bị đơn ông Đỗ Trọng Khiển, TAND quận CG đã có yêu cầu định giá tài sản có tranh chấp, tuy nhiên Hội đồng định giá không đưa ra giá theo yêu cầu của Tòa án, do có căn cứ xác định hợp đồng mua bán nhà vô hiệu, cần định giá tài sản để xác định thiệt hại nên Tòa án cấp phúc thẩm đã hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại theo thủ tục chung.

        1.5. Tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự không đảm bảo

        BLTTDS năm 2015 quy định 05 phương thức cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho đương sự gồm: Trực tiếp, qua dịch vụ bưu chính hoặc người thứ ba được ủy quyền; Bằng phương tiện điện tử theo yêu cầu; Niêm yết công khai; Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng và Phương thức khác theo quy định. Thực tế phổ biến nhiều trường hợp Toà án tống đạt văn bản tố tụng cho đương sự chưa đúng, chưa đầy đủ và kịp thời, khiến họ không có điều kiện bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình và đưa ra lời khai để làm chứng cứ chứng minh trong vụ án. Vi phạm trong việc tống đạt, thông báo văn bản tố tụng cho đương sự có thể không làm ảnh hưởng đến bản chất và nội dung vụ án nhưng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự nên là một trong những căn cứ để cấp phúc thẩm hủy bản án, quyết định sơ thẩm.

        Vụ án “Tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bích Nhung và bị đơn Công ty cổ phần đầu tư và xây dựng quốc tế Asean, ngày 23/11/2022 TAND quận TX niêm yết Quyết định hoãn phiên tòa tại UBND xã Sài Sơn đến ngày 05/12/2022 TAND quận TX đã tiến hành xét xử là không đảm bảo thời gian niêm yết đủ 15 ngày tính từ ngày niêm yết. Ngoài việc niêm yết thì Tòa án không thực hiện thủ tục tống đạt theo hình thức khác đối với Quyết định hoãn phiên tòa cho nguyên đơn là bà Nhung. Như vậy, Tòa án đã vi phạm các quy định tại Điều 179 BLTTDS. Trên cơ sở đó, Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án do nguyên đơn bà Nhung vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai là không có căn cứ, do đó TAND thành phố đã hủy Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án sơ thẩm để đảm bảo quyền và nghĩa vụ hợp pháp của nguyên đơn.

        1.6. Sửa chữa, bổ sung bản án không đúng quy định

        Tòa án ban hành hai bản án khác nhau cho cùng một vụ việc, hoặc tự ý sửa chữa, bổ sung nội dung bản án không thuộc phạm vi cho phép là vi phạm khoản 1 Điều 268 BLTTDS, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của đương sự.  Sau khi tuyên án xong thì Tòa án không được sửa chữa, bổ sung bản án, trừ trường hợp phát hiện lỗi rõ ràng về chính tả, về số liệu do nhầm lẫn hoặc tính toán sai.

        Ví dụ vụ án “Tranh chấp đòi tài sản” giữa nguyên đơn ông Trần Văn Cẩn, bà Nguyễn Thị Mười và bị đơn ông Nguyễn Minh Phụng, bà Phạm Thị Ngọc Hà, cùng một vụ án nhưng TAND quận TX ban hành 02 bản án sơ thẩm có nội dung khác nhau, liên quan đến nhận định và quyết định về yêu cầu độc lập của bà Hà (là đại diện theo ủy quyền cho anh Tạ Hà Giang), ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Những nội dung thay đổi giữa bản án giao lần 1 và bản án giao lần 2 (bản án trong hồ sơ vụ án) không thuộc trường hợp được sửa bản án sơ thẩm vì thay đổi trực tiếp các nội dung liên quan đến quyền của các bên, vi phạm Điều 3, Điều 268 BLTTDS nên TAND thành phố đã xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm của TAND quận Thanh Xuân để xét xử lại.

        2. Vi phạm về nội dung

        2.1. Xác định thời hiệu khởi kiện không chính xác

        Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cơ quan, tổ chức, cá nhân được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Việc xác định thời hiệu khởi kiện có ý nghĩa quan trọng trong việc thụ lý, giải quyết tranh chấp tại Tòa án, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các đương sự. Tuy nhiên, thực tiễn có nhiều trường hợp Tòa án xác định thời hiệu không đúng, phổ biến nhất là xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế không đúng.

        Theo quy định tại Điều 623 BLDS năm 2015, thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản. Tuy nhiên đối với các trường hợp thừa kế mở trước ngày 10/9/1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Pháp lệnh Thừa kế, theo đó thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế được tính từ ngày 10/9/1990. Trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1991, di sản thừa kế là nhà ở thì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 17 Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Mục I.2.2a Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC theo đó thời gian từ ngày 01/7/1996 đến 01/01/1999 (02 năm 06 tháng) không tính vào thời hiệu khởi kiện, nghĩa là thời hiệu khởi kiện chia thừa kế đối với di sản có nhà trên đất được cộng thêm 02 năm 06 tháng. Hiện vẫn còn nhiều trường hợp Toà án xác định không đúng thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia thừa kế của nguyên đơn như:

        - Vụ án “Tranh chấp chia di sản thừa kế giữa nguyên đơn bà Trịnh Thị Đào và bị đơn ông Trịnh Thế Châu: Cụ Trịnh Thế Trinh chết năm 1978, di sản thừa kế của cụ Trinh có nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất, TAND huyện MĐ cho rằng ngày 10/5/2021 bà Trịnh Thị Đào mới khởi kiện chia thừa kế là hết thời hiệu và đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Đào.

        - Vụ án “Tranh chấp chia thừa kế giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Sành và bị đơn anh Nguyễn Trọng Quý, bà Nguyễn Thị Thêm: Cụ Nguyễn Trọng Sáu chết ngày 10/5/1990, tại thời điểm cụ Sáu chết, trên diện tích đất ở có 01 nhà cấp 4 và 01 nhà mái bằng do vợ chồng cụ Sáu xây dựng, ngày 07/01/2021 bà Sành có đơn khởi kiện, TAND huyện ĐP xác định thời hiệu chia di sản thừa kế đối với diện tích đất ở của cụ Sáu đã hết nên đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Sành.

        - Vụ án “Tranh chấp chia thừa kế” giữa nguyên đơn bà Cao Thị Lụa và bị đơn ông Cao Duy Lọ. Cụ Cao Văn Mai chết năm 1983, di sản thừa kế của cụ Mai có nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất, ngày 08/3/2022, bà Lụa khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Mai là còn trong thời hiệu, TAND huyện ĐA đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà Lụa là không đúng.

        Cả 03 vụ án trên Toà án cấp sơ thẩm đều áp dụng không đúng quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện chia thừa kế nên TAND thành phố xét xử phúc thẩm phải hủy án sơ thẩm để giải quyết lại để đảm bảo quyền lợi của các đương sự và nguyên tắc xét xử hai cấp trong tố tụng dân sự.

        2.2. Xác định sai quan hệ pháp luật, áp dụng pháp luật không đúng

        Khi giải quyết vụ án, Tòa án phải xác định đúng quan hệ pháp luật để áp dụng đúng pháp luật nội dung khi giải quyết yêu cầu của đương sự, do quan hệ pháp luật khác nhau thì pháp luật áp dụng để giải quyết khác nhau. Tuy nhiên, giữa các mối quan hệ tranh chấp đa dạng, đan xen trong thực tế, việc xác định đúng quan hệ tranh chấp không dễ dàng, đặc biệt với các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, nhiều Tòa án còn nhầm lẫn giữa các mối quan hệ pháp luật như: Kiện đòi tài sản với Tranh chấp quyền sử dụng đất, Tranh chấp hợp đồng vay tài sản với Tranh chấp hợp đồng góp vốn, Tranh chấp đòi tài sản với Tranh chấp hợp đồng đặt cọc, Tranh chấp chia thừa kếTranh chấp chia tài sản chung… . Do đó nhiều trường hợp xác định sai quan hệ tranh chấp dẫn đến áp dụng pháp luật không đúng, xác định thiếu người liên quan tham gia tố tụng, giải quyết không đúng, không hết yêu cầu của đương sự, xác minh, thu thập chứng cứ không đầy đủ. Ví dụ:

        Vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn bà Hoàng Thanh Bình với bị đơn ông Ngô Văn Thăng, bà Bình và ông Thăng thỏa thuận cùng mua 60% cổ phần Trường mầm non tư thục Bình Minh. Bà Bình đã chuyển tiền cho ông Thăng 7,8 tỷ đồng để góp vốn. Sau đó, bà Bình muốn rút lại số tiền đã góp, ông Thăng không có tiền mặt để trả nên đã ký Hợp đồng kinh tế với Công ty TNHH do bà Bình làm Giám đốc, sau đó, ông Thăng viết giấy vay nợ bà Bình với số tiền cả gốc và lãi khoảng 21 tỷ đồng. Bản chất quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp hợp đồng góp vốn” mua cổ phần của Trường mầm non tư thục Bình Minh. TAND quận CG xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” nhưng không xác minh rõ một số nội dung như: số tiền bà Bình cho ông Thăng vay, được xác định ở những giấy vay nợ nào? Đã trả bao nhiêu tiền gốc, tiền lãi? Còn nợ bao nhiêu? Có thỏa thuận về lãi suất không? là không đúng quan hệ pháp luật, dẫn đến việc áp dụng văn bản pháp luật và giải quyết vụ án sai.

        Vụ án “Tranh chấp đòi tài sản” giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hiền và bị đơn ông Nguyễn Khắc Chiến. Bà Lê Thị Xuân Lý ký Hợp đồng đặt cọc với ông Nguyễn Khắc Chiến đặt cọc số tiền 10 tỷ đồng để mua đất của ông Chiến, sau đó bà Nguyễn Thị Hiền là người chuyển tiền đặt cọc cho ông Chiến. Bà Lý khẳng định toàn bộ số tiền đặt cọc bà Hiền đã chuyển cho ông Chiến đều là tiền của bà, còn bà Hiền xác định trong đó số tiền 4 tỷ bà chuyển cho ông Chiến là để góp tiền mua chung đất với bà Lý. Như vậy cho dù số tiền đó là của bà Hiền hay bà Lý thì đều có căn cứ xác định đó là tiền trả cho hợp đồng đặt cọc nên quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”. TAND quận BTL chỉ căn cứ vào yêu cầu đòi tiền của nguyên đơn để xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp đòi tài sản” dẫn đến đường lối giải quyết vụ án không đúng quy định pháp luật.

        2.3. Vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ

        Khi giải quyết vụ án Tòa án phải xem xét, nhận định đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Vi phạm này thường bắt nguồn từ việc nhận thức và áp dụng không đúng các quy định của pháp luật cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành, như nhận thức, áp dụng sai các quy định của pháp luật về thừa kế, về giao dịch, hợp đồng, xác định không đúng tính hợp pháp của di chúc, xác định di sản thừa kế không đúng, tuyên hủy/vô hiệu hợp đồng không có căn cứ.... Tòa phúc thẩm đã sửa nhiều bản án do Tòa án có sai sót trong việc đánh giá chứng cứ không đầy đủ, không khách quan, không công bằng dẫn đến giải quyết vụ án sai pháp luật, không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của đương sự.

        Một số vụ việc điển hình: Vụ án “Tranh chấp đòi quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Nhàn, Nguyễn Thị Thìn và bị đơn ông Nguyễn Trọng Ngọ, TAND huyện HĐ chỉ căn cứ vào lời khai của bà Nhàn, bà Thìn và Sổ mục kê đất năm 1986 có tên các bà, đồng thời nhận định: bà Nhàn và bà Thìn là con đẻ của cụ Du và cụ Yên, không bị các cụ tước quyền thừa kế, hưởng di sản, mặt khác các con trai của 02 cụ đều được chia rất nhiều đất thổ cư, người con trai nuôi của 02 cụ cũng được chia 01 cái ao nên còn đất ruộng 02 cụ chia cho các con gái là phù hợp phong tục tập quán địa phương, trên cơ sở đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nhàn, bà Thìn về việc đòi ông Ngọ trả lại quyền sử dụng đất là không có căn cứ. TAND thành phố đã xét xử phúc thẩm, sửa án sơ thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

        Vụ án Tranh chấp chia thừa kế và huỷ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất; huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, huỷ hợp đồng thế chấp“ giữa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thủy với bị đơn bà Nguyễn Thị Chiến. TAND thị xã ST xác định di chúc của ông Liêm hợp pháp nên không chấp toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về chia thừa kế là không phù hợp, vì hình thức di chúc không đúng quy định của pháp luật (vi phạm khoản 5 Điều 652 BLDS năm 2005 về thời hạn xác nhận di chúc tại cơ quan có thẩm quyền; vi phạm Điều 11 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP của Chính phủ quy định về ký, điểm chỉ trong thực hiện công chứng, chứng thực: việc xin xác nhận không có mặt của những người làm chứng. người thực hiện quyền và nghĩa vụ về tài sản liên quan đến nội dung di chúc lại là người viết di chúc nên di chúc không hợp lệ). Mặt khác, người được chỉ định theo di chúc đã không thực hiện đúng nội dung di nguyện của ông Liêm được thể hiện trong bản di chúc; tại thời điểm lập di chúc thì mẹ đẻ của ông Liêm vẫn còn sống, 2 con của ông Liêm đều chưa thành niên, theo quy định tại Điều 669 BLDS năm 2005 quy định thì: “Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng vẫn được hưởng phần di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc”. TAND thành phố đã xét xử phúc thẩm, hủy án sơ thẩm để giải quyết lại theo quy định.

        Vụ án “Yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và đòi quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn cụ Đỗ Thị Vượng và bị đơn chị Lăng Thị Thu, thửa đất tranh chấp có nguồn gốc là của cố Bảy cho cụ Vượng từ năm 1974 nên mặc dù GCNQSD đất mang tên mình cụ Vượng nhưng theo quy định Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì đây là tài sản chung của vợ chồng cụ Vượng và cụ Du. Việc cụ Vượng tặng cho ông Thạch toàn bộ thửa đất mà không có đầy đủ ý kiến của những người con của cụ Du là không phù hợp nên hợp đồng tặng cho của cụ Vượng với ông Thạch bị vô hiệu một phần đối với phần tài sản của cụ Du, dẫn tới hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông Thạch và chị Thu cũng vô hiệu một phần. Bản án sơ thẩm của TAND huyện TT nhận định “tài sản của cụ Vượng thuộc thửa đất này chưa được phân định xác định rõ” và hủy toàn bộ hợp đồng tặng cho giữa cụ Vượng với ông Thạch và hợp đồng giữa ông Thạch với chị Thu là không phù hợp quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của chị Thu.

        Để khắc phục và hạn chế số lượng bản án, quyết định bị hủy, cần tiếp tục nâng cao nhận thức pháp lý cho đội ngũ Thẩm phán và Kiểm sát viên; tăng cường kiểm tra, rút kinh nghiệm và xử lý trách nhiệm trong nội bộ ngành. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh đào tạo chuyên sâu, nhất là kỹ năng nhận diện và xử lý các vi phạm tố tụng, tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong quá trình tố tụng nhằm đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền lợi của công dân.  Trong đó, việc nhận diện và chỉ ra các dạng vi phạm phổ biến của Tòa án trong quá trình giải quyết án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát hoạt động tư pháp. Từ đó, góp phần bảo đảm việc xét xử công bằng, đúng pháp luật, đồng thời tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Nguyễn Hồng Hạnh, Trần Thị Luyến, Ngô Phương Liên – Phòng 9

Bài viết trước Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo công dâng Bác
Bài viết tiếp theo Viện kiểm sát đề nghị lại mức án đối với Nguyễn Văn Hậu và một số bị cáo do nộp tiền khắc phục hậu quả
In
263 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
TIN MỚI NHẤT
Tin đọc nhiều