Những điểm mới của Nghị định 30/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự

Nguyễn Thành Lâm

       Hơn 10 năm kể từ khi được áp dụng vào thực tiễn, nhìn chung Nghị định 26/2005/NĐ-CP ngày 02/3/2005 của Chính phủ quy định về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự (Gọi tắt: Nghị định 26) đã thu được những kết quả nhất định, đảm bảo xác định giá trị của tài sản trong tố tụng hình sự phù hợp với giá thị trường, là căn cứ khách quan giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định cấu thành, các tình tiết định khung đối với giải quyết các vụ án có liên quan đến tài sản, đảm bảo tính khách quan, xác thực và có căn cứ trong việc xử lý vụ án. Tuy nhiên đến nay, đặc biệt là khi Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Bộ luật tổ tụng hình sự năm 2015 có hiệu lực và qua thực tiến áp dụng, Nghị định 26 đã bộc lộ những bất cập, khó khăn, không còn phù hợp so với các văn bản pháp luật khác. Vì lẽ đó, ngày 07/3/2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định 30/2018/NĐ-CP (gọi tắt: Nghị định 30) quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự, thay thế cho Nghị định 26. Nghị định 30 có hiệu lực ngày 01/5/2018. Đây là một trong những văn bản để hướng dẫn, triển khai thi hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

       I. Những quy định mới về định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Nghị định 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018

       1. So với Nghị định 26, Nghị định 30 đã quy định chi tiết hơn về công tác định giá tài sản trong TTHS, quy định cụ thể đối tượng áp dụng của Nghị định này là: “các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có yêu cầu thành lập Hội đồng định giá; cơ quan có thẩm quyền thành lập Hội đồng định giá; cơ quan, tổ chức cử người và cá nhân được cử tham gia Hội đồng định giá; cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan.” (Điều 2)

       2. Tại Điều 4 Nghị định 30 đã quy định theo hướng mở rộng hơn đối với nguyên tắc định giá tài sản: Hội đồng định giá tài sản có thể định giá tài sản tương tự với tài sản cần định giá. (Tài sản tương tự là tài sản cùng loại, tương đồng với tài sản cần định giá về một số đặc trưng cơ bản như mục đích sử dụng, công dụng, đặc điểm pháp lý và một số đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật chủ yếu, bao gồm nguyên lý cấu tạo, tính năng kỹ thuật và tính năng sử dụng - Điều 3.3). Quy định này đã tháo gỡ vướng mắc trong việc giải quyết các vụ án trong trường hợp không thu được tài sản hoặc tài sản thu giữ đã bị thay đổi so với ban đầu. Bên cạnh đó, giá trị tài sản định giá cũng được thay đổi từ “thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm” thành “tại thời điểm và nơi tài sản được yêu cầu định giá”.

       3. Quy định về Hội đồng định giá tài sản: Nghị định 30 quy định 02 dạng Hội đồng định giá là: Hội đồng định giá theo vụ việc Hội đồng định giá thường xuyên. Hội đồng định giá theo vụ việc được thành lập ở cấp huyện, cấp tỉnh và trung ương. Hội đồng định giá thường xuyên được thành lập ở cấp huyện và cấp tỉnh. Đáng lưu ý, đối với cùng một tài sản được cơ quan có thẩm quyền trưng cầu định giá, nếu Hội đồng định giá thường xuyên đã tiến hành định giá với tài sản này thì không thành lập Hội đồng định giá theo vụ việc. (Điều 7)

       Một điểm rất nổi bật tại Nghị định 30 quy định về quyền và nghĩa vụ của Hội đồng định giá, theo đó, Hội đồng định giá có quyền: thuê các tổ chức giám định tình trạng kinh tế - kỹ thuật, tỷ lệ chất lượng của tài sản, doanh nghiệp thẩm định giá trong trường hợp cần thiết. Bên cạnh đó, Nghị định 30 cũng bổ sung thêm một số nghĩa vụ của Hội đồng định giá là: thông báo kịp thời bằng văn bản tới các thành viên Hội đồng về nội dung, thành phần, thời gian, địa điểm phiên họp định giá tài sản. (Điều 10); Đối với Chủ tịch và thành viên Hội đồng được bổ sung quyền “ghi ý kiến của mình vào biên bản phiên họp định giá nếu không thống nhất với kết luận của Hội đồng định giá” và có nghĩa vụ “giữ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện định giá tài sản” (Điều 11, 12)

       Nghị định cũng quy định cụ thể về số lượng thành viên của Hội đồng định giá phải là số lẻ, tối thiểu là 03 thành viên đối với Hội đồng định giá cấp huyện, 05 thành viên đối với Hội đồng định giá cấp tỉnh và ở trung ương. Trường hợp cần thiết, thủ trưởng cơ quan có thẩm quyền thành lập Hội đồng định giá có thể ra quyết định thành lập Tổ giúp việc Hội đồng. (Điều 8.4)

       Ngoài ra, so với Nghị định 26, Nghị định 30 cũng bổ sung thêm trường hợp không được tham gia Hội đồng định giá: Người đang trong thời gian thi hành kỷ luật từ hình thức cảnh cáo trở lên (Điều 13.6). Các quy định trên đảm bảo tính độc lập, khách quan trong hoạt động của Hội đồng định giá.

       4. Căn cứ và phương pháp định giá tài sản: Nghị định 30 chia tài sản định giá thành 02 loại là tài sản không phải là hàng cấm và tài sản là hàng cấm và quy định cụ thể căn cứ định giá đối với từng loại. Đối với tài sản không phải là hàng cấm phải dựa trên ít nhất một trong các căn cứ được quy định Điều 15.1 như: Giá thị trường của tài sản; Giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, quyết định; Giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp; Giá trong tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá (nếu có); Các căn cứ khác về giá hoặc giá trị của tài sản cần định giá; Đối với tài sản là hàng cấm, theo Điều 15.2: căn cứ định giá phải dựa trên ít nhất một trong các căn cứ theo thứ tự ưu tiên: Giá mua bán thu thập được trên thị trường không chính thức tại thời điểm và tại nơi tài sản là hàng cấm được yêu cầu định giá hoặc tại địa phương khác; Giá ghi trên hợp đồng, hóa đơn hoặc tờ khai nhập khẩu; Giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp; Giá thị trường trong khu vực hoặc thế giới của hàng cấm; Giá niêm yết, giá ghi trên hợp đồng, hóa đơn mua bán, tờ khai nhập khẩu của tài sản tương tự được phép kinh doanh tại Việt Nam... Bên cạnh các căn cứ định giá tài sản nêu trên, Nghị định 30 nêu rõ các mức giá từ các nguồn quy định ở trên được xác định tại thời điểm và tại nơi tài sản được yêu cầu định giá. Trường hợp thu thập nguồn thông tin về mức giá tài sản tại thời điểm khác hoặc ở địa phương khác thì mức giá đó cần được điều chỉnh phù hợp về thời điểm và nơi tài sản được yêu cầu định giá.

       Nghị định 30 cũng quy định cụ thể hơn về phương pháp định giá tài sản đối với một số trường hợp như: tài sản chưa qua sử dụng hoặc đã qua sử dụng, tài sản đã bị hủy hoại, hư hỏng một phần, thất lạc, tài sản là hàng giả hoặc không được mua bán phổ biến trên thị trường. (Điều 17)

       Các quy định trên đã giải quyết được vướng mắc thực tế khi Cơ quan tố tụng yêu cầu xác định giá trị tài sản là loại hàng cấm, hàng hóa không phổ biến... Tuy nhiên, Nghị định cũng quy định rõ trách nhiệm của Cơ quan tiến hành tố tụng ra văn bản yêu cầu định giá có trách nhiệm “tổ chức cho Hội đồng định giá khảo sát trực tiếp tài sản hoặc mẫu tài sản cần định giá” (Điều 16.1)

       5. Kết luận định giá tài sản: So với quy định tại Nghị định 26, phiên họp của Hội đồng định giá chỉ thực hiện khi có đầy đủ các thành viên thì tại Nghị định 30 quy định: trừ trường hợp Hội đồng định giá có 03 thành viên phải có đầy đủ 03 thành viên, thì Phiên họp định giá tài sản có thể tiến hành khi có mặt ít nhất 2/3 số lượng thành viên tham dự. Những thành viên vắng mặt phải có văn bản gửi tới Chủ tịch Hội đồng nêu rõ lý do vắng mặt và có ý kiến độc lập của mình về giá của tài sản cần định giá. (Điều 18)

       Đối với trường hợp định giá tài sản là hàng cấm, biên bản họp định giá tài sản ngoài những nội dung chính, biên bản họp còn phải nêu rõ những hạn chế về việc áp dụng các căn cứ định giá tài sản đối với hàng cấm; về quá trình thực hiện khảo sát giá; thu thập thông tin liên quan đến tài sản cần định giá là hàng cấm; về phương pháp định giá tài sản và các hạn chế khác (nếu có) khi định giá tài sản là hàng cấm. (Điều 19)

       Nghị định 30 quy định chi tiết về trường hợp định giá lại tài sản. Đáng lưu ý, viêc tiến hành định giá lại lần 2 chỉ được thực hiện trong trường hợp có mâu thuẫn giữa kết luận định giá lần đầu và kết quả định giá lại đồng thời thỏa mãn đủ 02 điều kiện quy định tại Điều 21.2; Đồng thời Nghị định cũng nêu cụ thể các trường hợp không định giá lại tài sản (Điều 21.5). Nghị định có thêm quy định mới về việc định giá lại tài sản trong trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 220 BLTTHS 2015. Theo đó, Viện trưởng Viện KSND tối cao, Chánh án TAND tối cao quyết định việc định giá lại tài sản khi đã có kết luận định giá lại lần 02 của Hội đồng định giá.

       Theo Điều 221 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 19.4 Nghị định 30 quy định, kết luận định giá tài sản được lập thành ít nhất 03 bản, 02 bản lưu trong Hồ sơ định giá tài sản và 01 bản gửi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu định giá tài sản, người yêu cầu định giá tài sản trong thời hạn 24 giờ. Sau đó, cơ quan đã yêu cầu, người yêu cầu định giá tài sản phải gửi kết luận định giá tài sản cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được kết luận định giá tài sản. Trong trường hợp cần làm sáng tỏ nội dung trong kết luận, cơ quan yêu cầu định giá tài sản có quyền yêu cầu Hội đồng định giá tài sản giải thích kết luận định giá và những tình tiết cần thiết.

       6. Hồ sơ định giá tài sản: Nghị định 30 quy định chặt chẽ hơn về hồ sơ định giá tài sản phải bao gồm cả “Văn bản yêu cầu định giá tài sản” và “Quyết định thành lập Hội đồng định giá”; bên cạnh đó, Nghị định 30 đã bổ sung thêm danh mục "Tài liệu do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cung cấp". (Điều 23).

       II. Một số vướng mắc trong thực tiễn khi thực hiện định giá tài sản trong TTHS

       1. Hiện nay các văn bản pháp luật chưa có quy định cụ thể về thẩm quyền, phạm vi định giá tài sản trong TTHS đối với những vụ án được phát hiện, xử lý trên địa bàn khác nhau. Ví dụ: Vụ án “Cướp tài sản” được cơ quan tố tụng huyện X phát hiện, khởi tố, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh thì việc định giá tài sản trong vụ án do Hội đồng định giá cấp nào thực hiện? Vì vậy cần có quy định cụ thể Hội đồng Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cấp nào trưng cầu định giá thì Hội đồng định giá cấp đó thực hiện để đảm bảo việc áp dụng được thống nhất, giải quyết vụ án được kịp thời.

       2. Thực tế, việc xác định giá trị tài sản trong một số vụ án rất phức tạp, phải thuê các tổ chức giám định tình trạng kinh tế - kỹ thuật, tỷ lệ chất lượng của tài sản, doanh nghiệp thẩm định để thực hiện, chi phí để giám định tài sản cao. Để đảm bảo việc kết quả thẩm định giá của các tổ chức này đưa ra là khách quan, tránh lãng phí cần có quy định cụ thể về điều kiện thuê tổ chức, doanh nghiệp giám định tài sản.

       3. Hiện nay, trong các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự, chỉ Cơ quan điều tra được cấp kinh phí, chi phí định giá tài sản vì vậy khó khăn khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án trưng cầu định giá tài sản trong TTHS.

       Xem Nghị định 30/2018/NĐ-CP tại đây

          Việt Hà, Thành Lâm - VPTH

Bài viết trước Những lỗi khi đảng viên vi phạm về hôn nhân, gia đình sẽ bị khai trừ Đảng
Bài viết tiếp theo Viện KSND thành phố Hà Nội tổ chức Hội nghị giao ban trực tuyến hai cấp tháng 4 năm 2018
In
1376 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
TIN MỚI NHẤT
Tin đọc nhiều