Nâng cao nhận thức một số quy định về Thủ tục rút gọn theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Huỳnh Phương Linh

Thủ tục rút gọn (TTRG) là một chế định mới, lần đầu tiên được quy định trong BL TTDS 2015. Mục đích của việc áp dụng TTRG là để giải quyết vụ án dân sự với trình tự, thủ tục đơn giản so với thủ tục giải quyết các vụ án dân sự thông thường, nhằm giải quyết vụ án nhanh chóng nhưng vẫn bảo đảm đúng pháp luật. Khi nghiên cứu, áp dụng về TTRG chúng ta phải nắm được những nguyên tắc cơ bản sau:

Thứ nhất: TTRG không áp dụng để giải quyết việc dân sự chỉ áp dụng để giải quyết vụ án dân sự khi có đầy đủ ba điều kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 317 (vụ án có tình tiết đơn giản, QHPL rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ; Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng; Vụ án không có yếu tố nước ngoài trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản 1, 2 Điều 317);

Thứ hai: Trong quá trình giải quyết vụ án theo TTRG, nếu xuất hiện tình tiết mới theo quy định tại khoản 3 Điều 317 của BL TTDS, làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để áp dụng theo TTRG thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Thời hạn chuẩn bị xét xử sẽ được tính lại theo thủ tục thường kể từ thời điểm có quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thường (khoản 4 Điều 317).

Thứ ba: Việc giải quyết vụ án theo TTRG được thực hiện ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm; Thành phần HĐXX sở thẩm và phúc thẩm chỉ do một thẩm phán tiến hành (Điều 65); tại cấp sơ thẩm, việc xét xử vụ án dân sự theo TTRG không có Hội thẩm nhân dân tham gia (Điều 11).

Thứ tư: VKS sẽ thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 21; Tuy nhiên, một trong những điều kiện để Tòa án áp dụng TTRG là Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ. Vì vậy, căn cứ quy định tại khoản 2 điều 21, điểm a khoản 1 Điều 317 ta xác định Viện kiểm sát chỉ tham gia phiên tòa dân sự theo TTRG khi đó là những vụ án có tình tiết đơn giản, QHPL rõ ràng, các đương sự thừa nhận nghĩa vụ; đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc trường hợp tòa án thụ lý giải quyết tranh chấp khi chưa có điều luật áp dụng.

Thứ năm, trình tự thủ tục rút gọn được quy định tại Phần thứ tư BL TTDS từ Điều 316 đến Điều 324; trường hợp không có quy định thì áp dụng những quy định khác của BL TTDS để giải quyết vụ án.  

Nhìn chung, các quy định về thủ tục tố tụng rút gọn được quy định tương đối cụ thể; Trong đó thời hạn giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm tối đa là 55 ngày kể từ ngày thụ lý; 60 ngày tại giai đoạn phúc thẩm. Cụ thể như sau:

* Tại giai đoạn sơ thẩm:

+ Thời hạn chuẩn bị xét xử theo TTRG là không quá 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và mở phiên tòa xét xử trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định.

+ Trường hợp Viện kiểm sát tham gia phiên tòa thì Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời hạn 03 ngày làm việc.

+ Việc khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG được thực hiện theo quy định tại Điều 319. Theo đó, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại là Chánh án tòa án đã ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo TTRG và Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án là quyết định cuối cùng.

+ Thủ tục tại phiên tòa tại phiên tòa sơ thẩm, Thư ký phiên tòa thực hiện công việc theo Điều 237; Thẩm phán tiến hành thủ tục khai mạc phiên tòa theo quy định tại Điều 239.

+ Về sự có mặt của các đương sự, KSV tại phiên tòa rút gọn: Các đương sự, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt tại phiên tòa xét xử theo TTRG. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử. Đương sự có quyền đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa (khoản 1 Điều 320). Với quy định này, tại phiên tòa lần đầu khi nguyên đơn có mặt, dù bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt mà không có lý do chính đáng thì phiên tòa vẫn được xét xử.

Điều 320 không quy định trường hợp nguyên đơn vắng mặt mà không có lý do chính đáng và hậu quả pháp lý của nó. Theo ý kiến của tác giả, TTRG trong TTDS là một quy định mới; việc quyết định áp dụng giải quyết vụ án theo TTRG là quyền của TAND chứ không phải là quyền yêu cầu của đương sự. Vì vậy, trong trường hợp này, HĐXX phải căn cứ khoản 1 Điều 227 tạm hoãn phiên tòa với lý do nguyên đơn vắng mặt. Thời hạn hoãn phiên tòa theo TTRG là không quá 15 ngày (Khoản 1 Điều 233). Tại phiên tòa tiếp theo nếu nguyên đơn vắng mặt không có lý do chính đáng thì HĐXX đình chỉ vụ án theo thủ tục chung.

Tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán sẽ tiến hành cho các đương sự hòa giải, trừ trường hợp không được hòa hoặc không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 206, 207. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự theo quy định tại Điều 212. Trường hợp các đương sự không thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán tiến hành xét xử theo trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên tòa được thực hiện theo quy định tại Mục 3 Chương XIV của BL TTDS.

* Việc chuyển từ TTRG sang thủ tục thường 

BLTTDS quy định quá trình giải quyết vụ án theo TTRG nếu xuất nếu xuất hiện một trong 6 tình tiết mới theo quy định tại khoản 3 Điều 317 làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo TTRG thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường.

 + Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, nếu vụ án rút gọn bị chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường thì thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường (khoản 4 Điều 317).

Theo quan điểm của tác giả, bản chất của việc áp dụng thủ tục rút gọn là để đảm việc việc giải quyết các vụ án nhanh gọn theo đúng thủ tục, thời hạn giải quyết theo luật định. Vì vậy, nếu tòa án vì lý do nào đó không đảm bảo đúng thời hạn giải quyết TTRG theo quy định thì cũng phải chuyển vụ án sang thủ tục thường.

- Trường hợp quá trình giải quyết vụ án theo TTRG có căn cứ đình chỉ thì thẩm phán phải căn cứ các quy định tại Điều 217 đến Điều 219 để ra quyết định.

Bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án theo TTRG có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm và có thể được cấp phúc thẩm áp dụng TTRG. Thời hạn kháng cáo của đương sự, kháng nghị của VKS cùng cấp đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo TTRG là 07 ngày (kể từ ngày tuyên án hoặc ngày nhận được bản án, quyết định được giao cho họ hoặc bản án, quyết định được niêm yết theo quy định Điều 322). Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 10 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định.

* Tại giai đoạn phúc thẩm:

- Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo TTRG: là 1 tháng, Thẩm phán được phân công giải quyết theo thủ tục phúc thẩm ra một trong các quyết định: Tạm đình chỉ; Đình chỉ xét xử hoặc Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được tính lại kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, Thẩm phán phải mở phiên tòa phúc thẩm. Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phúc thẩm và có quyền nghiên cứu hồ sơ trong 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.

Các đương sự, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt tại phiên tòa phúc thẩm. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, trừ trường hợp Viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm. Đương sự có quyền đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Trường hợp đương sự không kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa. Trường hợp đương sự có kháng cáo vắng mặt không rõ lý do tại phiên tòa đầu tiên thì HĐXX hoãn phiên tòa  theo quy định tại thủ tục chung và phải mở phiên tòa trong thời hạn 15 ngày (Khoản 1 Điều 233).

Trình tự, thủ tục tại phiên tòa phúc thẩm được thực hiện theo quy định khoản 3 đến khoản 6 Điều 324. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra bản án, quyết định.

Trên đây là các quy định về TTRG được quy định trong BLTTDS 2015.

Huyền Phương – Phòng 10

Bài viết trước Viện kiểm sát NDTP Hà Nội thông báo kế hoạch sơ tuyển công chức 2016 và hướng dẫn ôn tập.
Bài viết tiếp theo Viện kiểm sát nhân dân Quận Đống Đa tham gia hội khỏe chào mừng 62 năm giải phóng thủ đô.
In
2571 Đánh giá bài viết này:
Không có đánh giá
Vui lòng đăng nhập hoặc đăng ký để đăng bình luận.
TIN MỚI NHẤT
Tin đọc nhiều