GIẢI PHÁP NÂNG CAO TỶ LỆ THU HỒI TÀI SẢN BỊ CHIẾM ĐOẠT TRONG CÁC VỤ ÁN THAM NHŨNG, CHỨC VỤ
Công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng, chức vụ là hoạt động có vai trò quan trọng và là yếu tố đánh giá hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay.
Trong thời gian qua, công tác thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, chức vụ trên địa bàn thành phố Hà Nội bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội nói riêng và các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung trong quá trình phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đã có nhiều nỗ lực, cố gắng trong việc thu hồi tài sản Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị chiếm đoạt do hành vi tham nhũng gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế công tác phát hiện các hành vi tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng còn nhiều hạn chế; tỷ lệ thu hồi còn thấp so với số tài sản bị chiếm đoạt. Tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng hàng năm chỉ đạt từ 30-40%.
Ngày 27/11/2015, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 111/2015/QH13 giao nhiệm vụ cho các Cơ quan tiến hành tố tụng các cấp cần có biện pháp nâng tỷ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án kinh tế, tham nhũng, chức vụ lên trên 60%. Chính vì vậy, việc đề ra các biện pháp để nâng cao tỷ lệ thu hồi tài sản bị thiệt hại trong các vụ án tham nhũng, chức vụ là vấn đề được đặt ra cấp thiết hiện nay. Bài viết tập trung phân tích về những khó khăn, vướng mắc trong công tác thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, chức vụ và đề xuất các giải pháp để thực hiện có hiệu quả công tác này trong thời gian tới.
1. Một số khó khăn, vướng mắc trong công tác thu hồi tài sản tham nhũng
Tình hình tội phạm tham nhũng, chức vụ trên địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây vẫn diễn biến phức tạp; xảy ra ở hầu hết các lĩnh vực; tính chất ngày càng nghiêm trọng, thủ đoạn ngày càng tinh vi; mức độ tham nhũng lớn hơn, làm thất thoát một lượng lớn tài sản của Nhà nước, các tổ chức và cá nhân. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội, các đối tượng thường có hành vi tẩu tán tài sản bằng cách chuyển quyền sở hữu cho người thân, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài, hoặc sử dụng để đánh bạc, trả nợ dẫn đến không còn khả năng khắc phục thiệt hại. Bên cạnh đó, hiện nay chưa có cơ chế hiệu quả để kiểm soát được một cách chặt chẽ tài sản, thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn nên công tác xác minh để áp dụng các biện pháp cưỡng chế của các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn.
Một số quy định của pháp luật về công tác phòng, chống tham nhũng và các biện pháp thu hồi tài sản tham nhũng còn chưa chặt chẽ, thiếu tính đồng bộ, chưa tạo ra cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng một cách hiệu quả, cụ thể:
Luật phòng, chống tham nhũng 2005 chưa đề cập một cách sâu rộng về vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng. Các quy định chung như “Tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu” (Điều 4), “Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi, tịch thu tài sản tham nhũng” (Điều 70) chưa tạo ra cơ chế và các biện pháp cụ thể để các cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng trong việc thu hồi tài sản bị thiệt hại do hành vi tham nhũng gây ra.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng: “Tài sản tham nhũng là tài sản có được từ hành vi tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng”. Để xác định tài sản của một người nào đó có được do tham nhũng thì phải chứng minh được rằng người đó đã có hành vi tham nhũng. Tuy nhiên từ khi phát hiện đến tiến hành các hoạt động điều tra vụ án tham nhũng, chức vụ cần có nhiều thời gian, trải qua nhiều giai đoạn tố tụng, trong thời gian đó nghi can cũng như người thân của họ có thể đã kịp tẩu tán tài sản, nên phần lớn các vụ án tham nhũng đến khi truy tố, bị can đã không còn tài sản, không thể thu hồi được tài sản hoặc thu hồi không đáng kể so với thiệt hại đã gây ra.
Một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003, Bộ luật hình sự 1999 còn có nhiều bất cập trong việc xử lý tội phạm tham nhũng và áp dụng các biện pháp thu hồi tài sản. Theo quy định về các tội phạm về tham nhũng tại Mục A Chương XXI Bộ luật hình sự 1999 thì để có cơ sở quy kết trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi tham nhũng thì các cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh đối tượng phạm tội có mục đích vụ lợi và đã sử dụng tài sản cho những mục đích nào. Trong khi đó nhiều vụ án các đối tượng đã tiêu hủy tài liệu, chứng cứ, hoặc không khai nhận việc sử dụng tài sản đã chiếm đoạt, nên nhiều trường hợp không thể xử lý về tội danh tham nhũng, chức vụ. Ví dụ như vụ án Bùi Trọng Chinh cùng đồng phạm bị Viện kiểm sát nhân dân tối cao truy tố về tội Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (ủy quyền cho Viện kiểm sát NDTP Hà Nội – Phòng 5 kiểm sát xét xử), các bị can đã có hành vi rút tiền quỹ của công ty chi tiêu trái quy định, thu tiền mặt của cán bộ công nhân viên và các công ty đối tác nhưng không nộp quỹ, gây thiệt hại cho công ty 46.657.245.212đ và thiệt hại cho Ngân sách nhà nước 1.142.146.000đ, tuy nhiên, do các bị can đều khai nhận đã nộp tiền cho Trịnh Văn Thảo (Giám đốc Công ty PVC – ME hiện đang bỏ trốn) nên không có căn cứ chứng minh được được việc các bị can sử dụng tài sản thế nào, có yếu tố vụ lợi hay không nên chỉ xử lý về hành vi cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, việc áp dụng các biện pháp tịch thu, kê biên tài sản theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự còn nhiều hạn chế. Theo Điều 146 BLTTHS thì “Việc kê biên tài sản chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội mà BLHS quy định có thể tịch thu tài sản hoặc phạt tiền…; Chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị tịch thu, phạt tiền…”, dẫn đến việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản để bảo đảm thu hồi gặp nhiều khó khăn do Cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định được tài sản để kê biên và phải định giá để quyết định kê biên phần tài sản bảo đảm khi tịch thu hoặc phạt tiền cho tương ứng trong khi không phải vụ án nào cũng xác định được ngay tài sản chiếm đoạt để áp dụng các biện pháp tố tụng kịp thời, tránh tẩu tán tài sản. Quy định về việc chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có thể bị tịch thu, phạt tiền cũng dẫn đến việc thi hành án gặp khó khăn nếu phải thi hành phát mại, đấu giá đối với một phần tài sản trong tài sản là: căn hộ, biệt thự, quyền sử dụng đất…
Luật Phòng chống tham nhũng cũng như Nghị định 78/2013/NĐ-CP ngày 17 tháng 07 năm 2013 về minh bạch tài sản, thu nhập chưa có những quy định về xác minh tính trung thực của việc kê khai tài sản cũng như các quy định về việc kê khai số dư tài khoản tại các tổ chức tín dụng nước ngoài và quy định kiểm tra, giám sát tài khoản người thân trong gia đình hoặc cộng sự có liên quan tới cá nhân giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước. Công tác quản lý thu nhập, tài sản của cán bộ, công chức hiện nay còn mang tính hình thức, đối phó, dẫn đến việc xác minh chính xác tài sản có nguồn gốc từ hành vi tham nhũng của các đối tượng gặp còn nhiều khó khăn.
Vướng mắc trong công tác giám định thiệt hại: trong công tác giải quyết các vụ án tham nhũng, chức vụ cho thấy Kết luận giám định là nguồn chứng cứ quan trọng chứng minh tội phạm và xác định thiệt hại. Tuy nhiên việc thực hiện giám định trong lĩnh vực ngân hàng, xây dựng, đất đai... thường rất chậm, kéo dài, không đáp ứng yêu cầu về thời gian theo yêu cầu của các cơ quan tiến hành tố tụng, nên ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết vụ án và gây khó khăn trong việc bóc tách, xác định mức độ tham nhũng và thiệt hại do hành vi tham nhũng gây ra.
Vướng mắc trong việc xác định thiệt hại trong các vụ án tham nhũng trong lĩnh vực quản lý đất đai: Thực tế trong công tác kiểm sát điều tra án tham nhũng tại một số Viện kiểm sát cấp huyện cho thấy các vụ án tham nhũng liên quan đến việc thu hồi đất, bán đất, giao đất trái thẩm quyền thường khó áp dụng các biện pháp tư pháp để thu hồi tài sản do không chứng minh được số tiền thu lời bất chính của các đối tượng; số tiền các đối tượng thu được do bán, chuyển nhượng đất trái thẩm quyền hầu hết sử dụng để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho địa phương, nên CQĐT không thể áp dụng biện pháp kê biên để thu hồi tài sản mà chủ yếu dựa vào việc tự nguyện khắc phục của các bị can.
Bên cạnh những khó khăn nêu trên, một phần nguyên nhân chủ quan dẫn đến tỷ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, chức vụ còn thấp là do trong thời gian vừa qua các cơ quan tiến hành tố tụng hai cấp thành phố thường chủ yếu tập trung vào việc chứng minh hành vi vi phạm trong các vụ án tham nhũng, chức vụ mà chưa có sự quan tâm đúng mức, chưa thực sự chủ động trong việc xác minh tài sản tham nhũng và áp dụng các biện pháp tư pháp kịp thời, việc thu hồi tài sản bị chiếm đoạt còn phụ thuộc nhiều vào việc tự nguyện khắc phục thiệt hại của các bị can. Vì thế, không ít trường hợp, tài sản đã bị tẩu tán trước khi bản án có hiệu lực pháp luật, khi nhận được bản án thì cơ quan thi hành án không thể thực hiện được vì không còn tài sản để thi hành án.
Một số giải pháp nâng cao tỷ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, chức vụ:
Giải pháp, kiến nghị về quy định pháp luật.
Để công tác thu hồi tài sản thiệt hại trong các vụ án tham nhũng, chức vụ được thực hiện một cách có hiệu quả, Viện kiểm sát cần tiếp tục kiến nghị các Cơ quan tư pháp trung ương khắc phục những hạn chế, bất cập trong quy định về phòng, chống tham nhũng thời gian qua, cụ thể như sau
- Thứ nhất, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật phòng chống tham nhũng về khái niệm hành vi tham nhũng, theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật sang lĩnh vực tư, do tính chất nghiêm trọng và mức độ ảnh hưởng ngày càng lan rộng của tham nhũng trong khu vực tư, đặc biệt là các lĩnh vực giáo dục, y tế, ngân hàng đang được tư nhân hóa mạnh mẽ. Việc sửa đổi khái niệm hành vi tham nhũng tại Luật PCTN cũng sẽ thống nhất khái niệm tội phạm về chức vụ đã được mở rộng sang lĩnh vực tư được quy định tại Điều 352 Bộ luật hình sự 2015, qua đó sẽ thống nhất được cách hiểu, cách áp dụng trong việc xử lý loại tội phạm này.
- Thứ hai, nghiên cứu sửa đổi khái niệm tài sản tham nhũng quy định tại Điều 2 Luật phòng, chống tham nhũng theo hướng mở rộng khái niệm tài sản tham nhũng là tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng mà không giới hạn là phải chứng minh được hành vi tham nhũng qua hoạt động tố tụng nữa. Việc mở rộng khái niệm sẽ tạo cơ chế để các cơ quan chức năng ngăn chặn việc tẩu tán tài sản tham nhũng ngay từ khi có dấu hiệu tham nhũng. Theo đó cơ quan thanh tra, cơ quan điều tra có quyền đề nghị các cơ quan chức năng niêm phong, kê biên, phong tỏa tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng ngay từ khi phát hiện ra hành vi vi phạm, chứ không nhất thiết phải đợi đến khi thực hiện các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
- Thứ ba, cần bổ sung các quy định của Luật Phòng chống tham nhũng về công tác xác minh tính trung thực của việc kê khai tài sản cũng như trách nhiệm giải trình tài sản, thu nhập của các đối tượng thuộc diện kê khai, quy định về kê khai số dư tài khoản tại các tổ chức tín dụng nước ngoài và quy định kiểm tra, giám sát tài khoản người trong gia đình hoặc cộng sự có liên quan tới cá nhân có chức vụ, quyền hạn. Đồng thời, cần mở rộng phạm vi đối tượng phải kê khai tài sản tại Điều 44 Luật phòng, chống tham nhũng 2005 không bó hẹp trong phạm vi những người có chức vụ, quyền hạn mà cả tài sản của những cá nhân, công dân khác cũng cần phải đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền.
- Thứ tư, đối với các quy định về giám định tư pháp, cần thiết phải có các quy định cụ thể hơn về phân loại các lĩnh vực giám định và thời hạn giám định; trong một số thiệt hại về tài sản yêu cầu giám định về tài chính kế toán, giám định kỹ thuật, giám định chất lượng công trình... cần phải có sự điều phối, hợp tác của nhiều ngành khác nhau; việc xem xét đánh giá về kết luận giám định phải căn cứ vào phương pháp giám định, phương tiện giám định, quy trình thực hiện giám định và khả năng chuyên môn, sự độc lập, khách quan của người làm giám định tránh tình trạng cùng là đối tượng giám định nhưng có nhiều bản kết luận giám định khác nhau với kết quả giám định khác nhau.
2. Giải pháp về tổ chức thực hiện.
Một là, Viện kiểm sát cần tăng cường công tác phối hợp với Cơ quan điều tra ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố liên quan đến hành vi tham nhũng. Kiểm sát viên phải chủ động phối hợp Điều tra viên để phân loại, xác minh ban đầu, đánh giá số tài sản có thể bị thiệt hại để đề ra các biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản ngay sau khi khởi tố vụ án.
Hai là, Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thành phố cần quán triệt về vai trò, tầm quan trọng của công tác thu hồi tài sản tham nhũng, đồng thời đưa tỷ lệ thu hồi tài sản tham nhũng đạt trên 60% theo yêu cầu của Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội trở thành một trong chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả công tác hàng năm của các đơn vị để từ đó nâng cao trách nhiệm của các Lãnh đạo đơn vị, các Kiểm sát viên trong việc áp dụng các biện pháp thu hồi tài sản có hiệu quả.
Ba là, trong thời gian tới, tiếp tục quán triệt việc thi hành Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự 2015 với các quy định nhằm xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng và nâng cao việc thu hồi tài sản bị thiệt hại do tham nhũng gây ra. Cụ thể như quy định về các biện pháp kê biên, phong tỏa tài khoản; mở rộng đối tượng có hành vi tham nhũng trong lĩnh vực tư; xử lý hành vi hối lộ “lợi ích phi vật chất” trong các tội nhận hối lộ, đưa hối lộ, môi giới hối lộ; đặc biệt là quy định về không thi hành hình phạt tử hình đối với người kết án về tội tham ô, nhận hối lộ nhưng đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ (Điều 40 BLHS 2015).
Bốn là, ngoài việc áp dụng các biện pháp được pháp luật quy định, các Cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện đồng thời các biện pháp như vận động, động viên, thuyết phục các đối tượng tự nguyện giao nộp, khắc phục thiệt hại đã gây ra để được xem xét giảm nhẹ tội danh, hình phạt và hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
Năm là, phối hợp với cơ quan Thi hành án để thông qua công tác kiểm sát thi hành hình sự hàng năm có sự tổng kết nội dung các bị án bị xét xử về tội phạm tham nhũng, chức vụ bị tuyên phạt đã thực hiện việc bồi thường thiệt hại, tịch thu tài sản trong quá trình thi hành án như thế nào và gửi thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp để nắm và theo dõi để nghiên cứu rút kinh nghiệm trong việc áp dụng các biện pháp thu hồi tài sản bị thiệt hại trong các vụ án tham nhũng, chức vụ.
Sáu là, các Viện kiểm sát cấp quận huyện và các Phòng nghiệp vụ hàng năm cần có báo cáo cụ thể về những vụ án tham nhũng, chức vụ đã thụ lý giải quyết và tình hình thu hồi tài sản bị thiệt hại, chiếm đoạt trong các vụ án đó để Viện kiểm sát ND thành phố nắm và có những biện pháp nghiệp vụ chỉ đạo để thực hiện tốt công tác này.
Bảy là, để chống tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng có hiệu quả, trước hết nội bộ của Ngành phải thực sự trong sạch, vững mạnh. Ban cán sự Đảng, Lãnh đạo Viện kiểm sát hai cấp thành phố cần thống nhất nhận thức trong cán bộ, đảng viên, công chức về việc duy trì kỷ cương, kỷ luật nghiêm minh trong đội ngũ cán bộ của ngành; thực hiện tốt việc kê khai, kiểm soát việc kê khai tài sản theo quy định của Đảng, Nhà nước; không ngừng nỗ lực học tập nâng cao kiến thức chuyên môn, giữ vững phẩm chất Kiểm sát viên; áp dụng đa dạng các biện pháp nghiệp vụ để phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng trên địa bàn Thủ đô./.
Lã Thị Anh Hoa – Phòng 5