Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự của Viện KSND cấp huyện
1. Quyền kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Luật Tổ chức Viện KSND năm 2014: “1. Trường hợp hành vi, bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Viện kiểm sát nhân dân phải kháng nghị. Cơ quan, người có thẩm quyền phải giải quyết kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.”.
Kháng nghị là quyền của Viện KSND yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại Bản án, Quyết định hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật theo trình tự phúc thẩm hoặc yêu cầu xem xét lại Bản án, Quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm khi phát sinh tình tiết mới hoặc có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc thực hiện công tác kháng nghị của Viện kiểm sát (VKS) nhằm bảo đảm việc xét xử của Tòa án được thực hiện theo đúng pháp luật, xét xử nghiêm minh, kịp thời, đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Trong khuôn khổ bài viết, chúng tôi xin đề cập đến quyền kháng nghị bản án, Quyết định sơ thẩm của Viện KSND cấp quận, huyện, thị xã (sau đây gọi tắt là Viện KSND cấp huyện).
Theo quy định tại khoản 1 Điều 336 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS): “Viện kiểm sát cùng cấp, ... có quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm”. Như vậy, Viện KSND cấp huyện kháng nghị Bản án và các Quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp huyện như: Quyết định tạm đình chỉ vụ án, Quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo; Quyết định đình chỉ vụ án, Quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và các quyết định khác của toà án cấp sơ thẩm theo quy định của Điều 330 BLTTHS như: quyết định của toà án về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh (khoản 2 Điều 453 BLTTHS) chưa có hiệu lực pháp luật.
2. Kết quả công tác kháng nghị phúc thẩm của Ngành KSND
Trong những năm gần đây, thực hiện chỉ đạo tại các Chỉ thị số 03/CT-VKSTC ngày 19/6/2008 và Chỉ thị số 08/CT-VKS ngày 06/4/2016 của Viện trưởng Viện KSND tối cao về tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự đã nhấn mạnh cần nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm. Công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện KSND cấp huyện thành phố Hà Nội đã ngày được cả thiện cả về chất và lượng.
Cụ thể, năm 2017, VKS ban hành 214 kháng nghị (148 vụ/166 bị cáo là án ma túy theo Công văn 234/TANDTC) và VKS cấp huyện ban hành 40 kháng nghị khác. Viện KSND thành phố Hà Nội rút án kháng nghị khác của VKS cấp huyện: 04 vụ; tỷ lệ chấp nhận kháng nghị đạt 87,9%. Năm 2018, VKS cấp huyện ban hành 42 kháng nghị, Viện KSND thành phố Hà Nội rút án kháng nghị 03 vụ, Tòa án xét xử chấp nhận kháng nghị đạt tỷ lệ 93,1%. Năm 2019, VKS cấp huyện ban hành 45 kháng nghị, tỷ lệ kháng nghị phúc thẩm của VKS được Toà án xét xử chấp nhận đạt 77,4%. Năm 2020, VKS cấp huyện ban hành 38 kháng nghị, tỷ lệ kháng nghị phúc thẩm của VKS được Toà án xét xử chấp nhận đạt 85%. Trong 6 tháng đầu năm 2021, VKS cấp huyện ban hành 16 kháng nghị, Toà án xét xử chấp nhận đạt 66,7% (Báo cáo kết quả công tác kiểm sát các năm 2017, 2018, 2019, 2020 và 6 tháng đầu năm 2021 của Viện KSND thành phố Hà Nội).
Tỷ lệ kháng nghị phúc thẩm của Viện KSND cấp huyện chưa cao, còn có tình trạng Viện KSND cấp huyện kháng nghị, Viện KSND thành phố Hà Nội phải rút kháng nghị, không bảo vệ được kháng nghị.
3. Nguyên nhân, tồn tại, hạn chế công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát cấp huyện
Trong những năm gần đây, được sự chỉ đạo của Viện KSND tối cao, Lãnh đạo, các phòng nghiệp vụ Viện KSND thành phố Hà Nội, công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện KSND cấp huyện ngày càng được cải thiện. Song, tỷ lệ kháng nghị phúc thẩm so với tổng án hình sự thụ lý giải quyết còn hạn chế. VKS cấp huyện ít ban hành kháng nghị là do hai ngành tư pháp Viện kiểm sát - Tòa án đã làm tốt công tác phối hợp, chất lượng hồ sơ vụ án hình sự được nâng lên, các vụ án hình sự trái quan điểm giữa hai ngành đã được khắc phục, nhất là sau khi tháo gỡ được vướng mắc do Công văn 234/TANDTC-HS ngày 17/9/2014 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999. Tuy nhiên, bên cạnh các ưu điểm, công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện KSND cấp huyện còn nhiều hạn chế bởi những lý do sau:
Thứ nhất: khó khăn trong việc xác định căn cứ kháng nghị: Hiện nay, một số vụ án Viện KSND cấp huyện thấy Tòa án xét xử mức án rất thấp, hoặc quá nặng, chưa tưng xứng với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, nên cho rằng có căn cứ để kháng nghị phúc thẩm. Tuy nhiên, khi báo cáo thỉnh thị xin ý kiến của KSND thành phố cho ý kiến chỉ đạo không có căn cứ để kháng nghị, nên không đồng ý cho Viện KSND cấp huyện kháng nghị. Nếu VKS cấp huyện không báo cáo xin ý kiến kháng nghị trước mà tự ban hành kháng nghị sẽ dẫn đến tình trạng VKS thành phố phải rút kháng nghị hoặc không thể bảo vệ kháng nghị của VKS cấp huyện.
Thứ hai: Việc chậm chuyển Bản án/ Quyết định của Tòa án gây ảnh hưởng đến công tác kháng nghị của VKS: Theo Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp đối với bản án của Tòa án cấp sơ thẩm là 15 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 30 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là 07 ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ ngày Tòa án ra quyết định. Sau khi xét xử sơ thẩm, phát hiện bản án sơ thẩm có vi phạm, VKS đã hoàn thiện thủ tục ban hành kháng nghị. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại chậm trễ trong việc chuyển bản án cho VKS ngang cấp dẫn đến hết thời hạn kháng nghị ngang cấp hoặc hết cả thời hạn kháng nghị của Viện KSND thành phố. Đối với vi phạm về việc chậm gửi bản án/quyết định của Tòa án, VKS cũng chỉ có thể ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm mà không có chế tài xử lý vi phạm đối với Tòa án. Do đó, tình trạng cố tình chậm chuyển, không chuyển bản án của Tòa án vẫn diễn ra thường xuyên, nhất là đối với các vụ án khác quan điểm với VKS.
Thứ ba: Theo Hệ thống chỉ tiêu cơ bản ban hành kèm quyết định 379/QĐ-VKSTC ngày 10/10/2017 của Viện trưởng Viện KSND tối cao thì tỷ lệ kháng nghị được Tòa phúc thẩm chấp nhận cũng là rào cản VKS kháng nghị. Bởi tỷ lệ kháng nghị được chấp nhận là một chỉ tiêu thi đua. Do đó, để an toàn, nhiều VKS sẽ không ban hành kháng nghị vì lo ngại sẽ bị ảnh hưởng đến chỉ tiêu thi đua.
Thứ tư: VKS cấp tỉnh không chấp nhận hoặc không bảo vệ được kháng nghị của Viện KSND cấp huyện. Do trước khi phát hiện Tòa án có sai phạm, Viện kiểm sát không báo cáo thỉnh thị phòng nghiệp vụ cấp trên trực tiếp, tự ý ban hành kháng nghị khiến chất lượng kháng nghị không cao. Do kháng nghị không đúng hoặc nội dung bản án tuyên có vi phạm nhưng không đến mức phải kháng nghị, mà thuộc trường hợp chỉ cần kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm. Hoặc do khi xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm bảo vệ quan điểm của Tòa án cấp sơ thẩm, không chấp nhận kháng nghị của VKS dù kháng nghị đúng. Do đó, nếu VKS cấp huyện không báo cáo xin ý kiến kháng nghị trước mà tự ban hành kháng nghị sẽ dẫn đến tình trạng VKS thành phố phải rút kháng nghị hoặc không thể bảo vệ kháng nghị của VKS cấp huyện.
Thứ năm: VKS cấp huyện không tự phát hiện được những vi phạm, sai phạm của tòa án nên không ban hành kháng nghị được. Qua công tác kiểm sát bản án, quyết định mà cấp tỉnh, cấp cao mới phát hiện được, ban hành kháng nghị phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm. Do quá trình kiểm sát điều tra, truy tố, kiểm sát xét xử, kiểm sát bản án, Kiểm sát viên đã không kiểm sát tốt dẫn đến không tự phát hiện được các sai phạm của Tòa án, đồng ý với mức tuyên án của Tòa. Hoặc có những vụ án, do quan điểm giải quyết của Tòa án và Viện kiểm sát thống nhất nên đã tiến hành xét xử, bị cáo, bị hại không kháng nghị. Chỉ qua công tác kiểm sát bản án VKS thành phố mới phát hiện được vi phạm, ban hành kháng nghị phúc thẩm hoặc đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.
Thứ sáu: Bộ luật Tố tụng hình sự quy định thẩm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhưng chế tài xử lý đối với Tòa án để xảy ra vi phạm không cao dẫn tới các bản kháng nghị của Viện kiểm sát chưa đạt được hiệu quả giá trị tương xứng.
4. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện KSND cấp huyện
4.1. Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động kháng nghị phúc thẩm của Viện KSND
- Thực tế công tác kháng nghị vụ án hình sự trong những năm qua cho thấy, công tác kháng nghị của Viện KSND các cấp nói chung, của VKS cấp huyện nói riêng còn ít về số lượng và hạn chế về chất lượng. Nguyên nhân của hạn chế trên có một phần là do hệ thống pháp luật quy định về công tác kháng nghị chưa hoàn thiện. Vì vậy, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kháng nghị phúc thẩm của Viện KSND. Theo chúng tôi, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS nhằm tháo gỡ những vấn đề cơ bản sau:
- Cần bổ sung quy định về căn cứ kháng nghị phúc thẩm hình sự: Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành chỉ quy định về thẩm quyền, thời hạn, thủ tục nhưng không quy định căn cứ kháng nghị. Việc không quy định về căn cứ kháng nghị gây khó khăn cho Viện kiểm sát trong việc đánh giá về tính chất, mức độ nghiêm trọng vi phạm của Tòa án. Do đó, các đề xuất kháng nghị của Viện KSND cấp huyện không được bảo vệ hoặc bị Tòa án bác kháng nghị. Vì vậy, thiết nghĩ cần có quy định cụ thể về căn cứ kháng nghị phúc thẩm để Viện kiểm sát có thể kháng nghị đúng, Tòa án không thể bác kháng nghị thiếu cơ sở.
- Cần có quy định liên quan đến cơ chế bảo đảm cho kháng nghị phúc thẩm hình sự: Theo Điều 337 BLTTHS, thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày tuyên án. Theo BLTTHS thì thời hạn giao bản án cho Viện kiểm sát cùng cấp là trong thời hạn 10 ngày và không giao bản án cho Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Với quy định trên, trong trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm gửi bản án đúng thời hạn là 10 ngày thì Viện kiểm sát chỉ còn 5 ngày nghiên cứu bản án và hồ sơ vụ án để quyết định kháng nghị. Tuy nhiên, trên thực tế, Tòa án gửi bản án đa số là trễ hạn và quá hạn luật định. Do vậy, việc kịp thời phát hiện vi phạm của các bản án sơ thẩm để kháng nghị gặp nhiều khó khăn, hết thời hạn ban hành kháng nghị, báo cáo kháng nghị. Do đó, để bảo đảm cho công tác kháng nghị của Viện kiểm sát, cần bổ sung quy định: sửa Điều 337 BLTTHS theo hướng quy định thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 10 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 15 ngày kể từ khi nhận được bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
- Cần quy định chế tài đối với Tòa án, Thẩm phán để xảy ra vi phạm trong việc chậm gửi Bản án, Quyết định đã làm ảnh hưởng đến quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát; Viện kiểm sát kháng nghị đúng, được cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm tuyên sửa, hủy bản án theo đề nghị của Viện kiểm sát. Theo chúng tôi, cần nghiên cứu bổ sung quy định chế tài đối với Tòa án, Thẩm phán trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật tổ chức Tòa án nhân dân là việc hết sức cần thiết, bảo đảm quyền kháng nghị của Viện kiểm sát. Đồng thời, quy định chế tài rõ ràng, cụ thể đối với Tòa án, Thẩn phán để xảy ra vi phạm sẽ giúp cho Tòa án, Thẩm phán tự giác thực hiện theo quy định, giảm thiểu được các vi phạm trên. Như vậy, mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát sẽ được thực hiện tốt hơn, không để xảy ra mâu thuẫn, bất hòa không đáng có giữa các cơ quan tố tụng, Thẩm phán và Kiểm sát viên.
4.2. Thực hiện tốt công tác cán bộ của ngành KSND
Để bảo đảm thực hiện tốt yêu cầu về cải cách tư pháp và nhiệm vụ được giao, chúng tôi thấy rằng, cần đổi mới, cải cách mạnh mẽ trong công tác tổ chức: sắp xếp, bố trí hợp lý và khoa học công tác tổ chức cán bộ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, phù hợp với khả năng, trình độ của đội ngũ Kiểm sát viên. Thực tế cho thấy, không phải tất cả Kiểm sát viên đều có thể làm tốt nhiệm vụ thực hành quyền công tố tại phiên tòa. Chất lượng công tố tại phiên tòa có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng công tác kháng nghị. Do đó, Lãnh đạo đơn vị cần mạnh dạn đổi mới trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, phân công nhiệm vụ cho Kiểm sát viên làm công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử. Đồng thời, Viện KSND tối cao, Viện KSND thành phố Hà Nội cần thường xuyên mở cá lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ nói chung và kỹ năng thực hiện quyền kháng nghị nói riêng.
4.3. Nâng cao chất lượng công tác kiểm sát xét xử của Kiểm sát viên
Để thực hiện tốt quyền kháng nghị phúc thẩm của Viện KSND cấp huyện, kết quả công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa, chất lượng công tác kiểm sát Bản án/Quyết định của Kiểm sát viên có giá trị quyết định đến chất lượng, hiệu quả công tác kháng nghị của Viện kiểm sát. Do đó, theo chúng tôi, bản thân mỗi Kiểm sát viên cần ý thức được vai trò, trách nhiệm của bản thân đối với công tác, nhiệm vụ được giao. Kiểm sát viên cần không ngừng nỗ lực phấn đấu học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng cũng như tự tìm tòi, học hỏi, rút kinh nghiệm để nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ của bản thân. Chỉ khi Kiểm sát viên ý thức được đúng đắn vai trò, nghĩa vụ của bản thân với công việc được giao thì họ mới tích cực, chủ động, trách nhiệm trong công việc, mới có thể kịp thời phát hiện vi phạm của Tòa án, báo cáo đề xuất lãnh đạo Viện về hình thức xử lý các vi phạm của Tòa án một cách phù hợp nhất.
4.4. Tăng cường công tác lãnh đạo của VKS các cấp trong công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự
Chỉ thị tăng cường công tác kháng nghị hình sự của Viện trưởng KSND tối cao đã chỉ rõ: “Trong những năm qua, công tác kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm hình sự của Tòa án nhân dân đã có những cố gắng nhất định. Để nâng cao chất lượng công tác kháng nghị cấp huyện, Lãnh đạo Viện cần quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm Chỉ thị số 03, đồng thời, chú trọng công tác sơ kết, tổng kết, theo dõi giám sát, khen thưởng động viên, bảo đảm các chế độ chính sách cho cán bộ, Kiểm sát viên nhất là điều kiện phương tiện, kỹ thuật để làm việc cũng như chế độ đãi ngộ thỏa đáng. Lãnh đạo Viện cần thận trọng, nghiêm túc, sâu sát trong chỉ đạo giải quyết và duyệt án; đặt ra những yêu cầu cụ thể, tỷ mỉ đối với Kiểm sát viên trong việc báo cáo kết quả phiên toà, trong việc kiểm sát biên bản phiên tòa và kiểm sát bản án sau phiên toà và đề xuất quan điểm của mình sau kiểm sát; chú trọng những vụ án có quan điểm khác nhau giữa Toà án và Viện kiểm sát; yêu cầu Kiểm sát viên sau khi tham gia phiên toà, nếu phát hiện vi phạm của Tòa án, cần chủ động đề xuất quan điểm với Lãnh đạo Viện để Lãnh đạo Viện xem xét, chỉ đạo kịp thời.
4.5. Cần quy định cụ thể công tác báo cáo thỉnh thị trước kháng nghị
Thực tế cho thấy, khi Viện KSND cấp huyện phát hiện vi phạm, có quan điểm khác với Tòa án, đơn vị kịp thời báo cáo thỉnh thị xin ý kiến kháng nghị đến Phòng 7 - Viện KSND thành phố Hà Nội sẽ được hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời. Chất lượng kháng nghị của đơn vị được bảo đảm. Do đó, cần có quy định rõ ràng, cụ thể và yêu cầu thực hiện nghiêm túc công tác báo cáo thỉnh thị trước khi kháng nghị để đảm bảo kháng nghị của VKS có chất lượng, được Tòa án chấp nhận. Vì vậy, chúng tôi nghĩ rằng, nếu làm tốt công tác báo cáo kháng nghị thì không chỉ công tác kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự của Viện KSND cấp huyện thành phố Hà Nội nói riêng mà công tác báo cáo kháng nghị trong toàn ngành kiểm sát nói chung sẽ hiệu quả, chất lượng, đáp ứng yêu cầu được giao.
Nhóm tác giả: Nguyễn Văn Thuật - Viện trưởng, Triệu Văn Doan - Phó Viện trưởng,
Nguyễn Thị Hồng Loan - Kiểm sát viên - Viện KSND huyện Thường Tín